
Sinh viên thi và kiểm tra kỹ năng tay nghề ngành y trong một hội thi học sinh sinh viên giỏi nghề tại TP.HCM - Ảnh: Q.L.
Tranh luận giữa Bộ Y tế cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo quanh câu chuyện văn bằng chuyên khoa I, II, bác sĩ nội trú và thạc sĩ, tiến sĩ không chỉ là chuyện "đổi tên học vị" mà lộ ra bất cập lớn hơn về hệ thống văn bằng và cơ chế sử dụng nhân lực chưa theo kịp thực tiễn nghề y.
Khi chiếc áo quản lý không đúng cỡ, cả người học, người dạy và người bệnh đều chịu thiệt. Thực tế cho thấy "chiếc áo hành chính" đang được thiết kế chưa hợp cỡ so với "cơ thể thực tiễn" và những đòi hỏi của ngành y hiện tại.
1. Một bên Bộ Giáo dục và Đào tạo giữ nguyên tắc hệ thống văn bằng quốc gia theo logic hệ thống giáo dục và chuẩn mực quốc tế. Bên y tế lại muốn nâng giá trị văn bằng hành nghề bằng cách "ép" chúng tương đương học vị để mở lối học lên. Vấn đề vì thế bị đẩy vào vòng xoáy của những so sánh khập khiễng và các yêu cầu hành chính không phù hợp bản chất.
Trọng tâm của tranh luận nằm ở việc Bộ Y tế mong muốn công nhận CKI hay bác sĩ nội trú tương đương thạc sĩ để làm đầu vào nghiên cứu sinh. Nhưng trên thế giới, đào tạo chuyên khoa từ nội trú, CKI, CKII thuộc hệ chuyên nghiệp (professional track), không phải trình độ học thuật. Nó không thể "hóa thân" thành văn bằng thạc sĩ vốn là học vị thuộc hệ hàn lâm (academic track).
Sự khác biệt này không phải vấn đề tên gọi, mà là vấn đề bản chất. Một bên đào sâu tri thức và nghiên cứu, bên còn lại hướng tới kỹ năng, thực hành, năng lực điều trị chuyên nghiệp. Vì vậy, việc cố áp văn bằng này vào vị trí của văn bằng kia tất yếu tạo ra xung đột và làm méo khung trình độ quốc gia.
2. Vấn đề ở chỗ Bộ Giáo dục và Đào tạo mới có thẩm quyền quyết định điều kiện đầu vào tiến sĩ. Nếu bộ này thiết kế đường ray tiến sĩ chuyên nghiệp thì chính bộ cũng hoàn toàn có thể mở cơ chế cho phép CKI, bác sĩ nội trú dự tuyển bằng cách học bù những học phần họ còn thiếu như phương pháp nghiên cứu, thống kê y sinh, tư duy khoa học. Không cần và không nên "phù phép" ép CKI thành thạc sĩ, chỉ cần mở đúng cánh cửa và nâng chuẩn đầu vào phù hợp bản chất từng loại chương trình.
Trong khi đó, bất cập lớn nhất hiện nay lại nằm ở quy chế đào tạo đại học khi quy định giảng viên phải có bằng thạc sĩ, tiến sĩ để được dạy y khoa đã vô tình loại bỏ lực lượng bác sĩ thực hành tinh hoa - những người cầm dao mổ, trực cấp cứu, xử lý hàng nghìn ca bệnh. Sinh viên y khoa không chỉ học lý thuyết mà quan trọng hơn là học nghề. Nếu người chữa được bệnh lại không được phép dạy cách chữa bệnh, thì đó là sự lãng phí quá lớn và là một nghịch lý trong đào tạo.
3. Thẩm quyền để cho phép họ tham gia giảng dạy hoàn toàn nằm trong tay Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, chỉ cần bộ thiết kế yêu cầu năng lực giảng viên phù hợp đặc thù nghề y. Để giải quyết tận gốc, cần xây dựng cơ chế hai đường ray. Một đường ray học thuật (thạc sĩ, tiến sĩ nghiên cứu) và một đường ray lâm sàng (nội trú, CKI, CKII) với bộ tiêu chí độc lập, công nhận đúng giá trị của năng lực hành nghề.
Khi đó, việc xét tuyển, sử dụng hay phong hàm có thể dựa trên hai hệ chuẩn song hành, không còn ép buộc vào khung duy nhất vốn không phù hợp cho cả hai bên. Đây cũng là mô hình mà nhiều nước áp dụng để vừa bảo đảm chuẩn mực khoa học, vừa duy trì tính thực hành cao của các ngành đặc thù.
Việt Nam hoàn toàn có thể thiết kế song hành hai chuẩn, chuẩn học thuật và chuẩn lâm sàng, trên cơ sở kiểm định chương trình đào tạo và chuẩn năng lực hành nghề đã được Luật Khám bệnh, Chữa bệnh (sửa đổi) đặt ra.
4. Nếu cứ giữ cách làm cũ, hệ quả không chỉ là ách tắc văn bằng mà còn làm tổn hại đến năng lực cạnh tranh của nhân lực y tế. Trong bối cảnh nghị quyết 71 định hướng đổi mới mạnh mẽ hệ thống giáo dục - đào tạo, việc thiết kế lại đường đi của văn bằng y khoa là một yêu cầu cấp thiết để tránh phát sinh các "điểm nghẽn thể chế" kéo dài.
Hơn thế nữa, khi dịch chuyển sang mô hình chăm sóc sức khỏe dựa trên bằng chứng, chúng ta càng cần những bác sĩ vừa giỏi lâm sàng vừa hiểu tư duy nghiên cứu ứng dụng. Nếu không tạo cơ chế linh hoạt để họ học lên, ngành y sẽ tự đánh mất cơ hội chuyển đổi chất lượng nhân lực chất lượng cao.
Tuy nhiên, mọi tranh luận về văn bằng sẽ khó có ý nghĩa nếu không đi kèm cải cách đãi ngộ. Một bác sĩ lâm sàng giỏi, gánh trọng trách cao nhất trong phòng mổ nếu vẫn nhận mức lương và phụ cấp không tương xứng chỉ vì thiếu một văn bằng hàn lâm thì chính sách sẽ trở nên hình thức.
Khi chế độ sử dụng nhân lực không phản ánh đúng giá trị lao động, mọi cải tiến về văn bằng chỉ là vỏ bọc. Một hệ thống chỉ vận hành tốt khi giá trị công việc là nền tảng chứ không phải tên gọi văn bằng nặng hình thức.
Câu chuyện là lợi ích chung
Vấn đề không nằm ở việc phân định ai cao ai thấp mà ở chỗ chúng ta có tôn trọng logic của hệ thống giáo dục quốc dân, logic nghề y và logic sử dụng nhân lực hay không.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cần mạnh dạn mở lối học lên cho bác sĩ chuyên khoa, nội trú bằng đúng thẩm quyền của mình. Bộ Y tế cần tập trung vào chuẩn năng lực, chất lượng thực hành thay vì tìm cách hợp thức hóa văn bằng.
Khi chiếc áo hành chính được may lại cho đúng kích cỡ, bác sĩ giỏi nghề mới có thể bước lên bục giảng một cách đường hoàng và người hưởng lợi cuối cùng sẽ là người bệnh.
Đừng lãng phí nguồn lực
Hãy nhìn sang các lĩnh vực khác như báo chí, truyền thông, nghệ thuật... Nhiều nhà báo kỳ cựu, bao nhiêu NSND và NSƯT đâu cần bằng tiến sĩ mới được đứng lớp? Họ truyền nghề bằng chính vốn sống và kỹ năng điêu luyện, mà không ai coi đó là hạ chuẩn.
Nếu với báo chí, âm nhạc, sân khấu còn như vậy thì ngành y, một nghề siêu chuyên nghiệp tinh xảo, càng không nên khước từ nguồn lực giảng dạy quý giá là chính các bác sĩ lão luyện trong nghề mà không phải thạc sĩ hay tiến sĩ.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận