20/02/2023 09:33 GMT+7

Người lao động tự ý bỏ việc, công ty có phải trả lương ngày làm việc trước đó?

Người lao động tự ý chấm dứt hợp đồng lao động, công ty có phải trả lương những ngày làm việc trước đó không và có thể khấu trừ vào tiền lương để làm khoản tiền bồi thường không?

Người lao động tự ý bỏ việc, công ty có phải trả lương ngày làm việc trước đó? - Ảnh 1.

Người lao động tự ý bỏ việc, công ty có phải trả tiền lương ngày làm việc trước đó? - Ảnh minh họa: NGỌC THÀNH

Tôi tên Kim Thanh, hiện đang phụ trách nhân sự tại một công ty vốn FDI trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Tôi có một số thắc mắc cần được tư vấn như sau:

1. Với những trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái quy định thì người sử dụng lao động có quyền yêu cầu người lao động bồi thường theo quy định tại điều 40 Bộ luật lao động. 

Tuy nhiên, trên thực tế, khi người lao động tự ý chấm dứt hợp đồng lao động thì cũng tắt máy và cắt đứt liên lạc với công ty. Vậy, trường hợp này, công ty có phải trả lương cho những ngày làm việc của người lao động trước đó không và có thể khấu trừ trực tiếp từ tiền lương của những ngày làm việc trước đó của người lao động để làm khoản tiền bồi thường khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái quy định không?

2. Do một số nhân viên công ty tôi có nhu cầu vay tiền từ công ty để mua bất động sản. Vậy công ty có thể cho nhân viên vay và trừ một phần lương hằng tháng để đảm bảo khoản trả nợ vay không khi trên hợp đồng lao động đã ký trước đó không đề cập gì đến vấn đề cho vay và trả khoản vay này?

Luật sư Lê Văn Hoan trả lời:

Luật sư Lê Văn Hoan

Luật sư Lê Văn Hoan

Đối với câu hỏi thứ nhất, điều 40 Bộ luật lao động quy định về nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:

1. Không được trợ cấp thôi việc.

2. Phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động và một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.

3. Phải hoàn trả cho người sử dụng lao động chi phí đào tạo quy định tại điều 62 của bộ luật này.

Căn cứ điều luật trên, nếu người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động và một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước. 

Ngoài ra, nếu giữa người lao động và người sử dụng lao động có thỏa thuận về đào tạo nghề thì người lao động còn phải có nghĩa vụ trả cho người sử dụng lao động khoản chi phí đã bỏ ra trong việc đào tạo nghề theo nội dung các bên đã thỏa thuận.

Nếu đã xác định người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật và người lao động không tới làm việc thì người sử dụng lao động cũng không thể thanh toán những khoản tiền lương chưa chi trả cho những ngày làm việc trước đó. Người sử dụng lao động có thể giữ lại cho đến khi các bên giải quyết xong quan hệ lao động.

Người sử dụng lao động cần phải xác định và tiến hành các bước để chấm dứt quan hệ lao động (trong trường hợp này có thể xử lý kỷ luật bằng hình thức sa thải theo điều 125) với người lao động đúng trình tự, thủ tục khi người này tự ý nghỉ việc và cắt mọi liên lạc, tránh trường hợp sau này người lao động quay lại khởi kiện.

Việc yêu cầu người lao động bồi thường thiệt hại theo quy định tại điều 40 là quyền của người sử dụng lao động. Nếu việc yêu cầu này người lao động không thực hiện thì người sử dụng lao động có quyền khởi kiện ra tòa án để giải quyết.

Đối với câu hỏi thứ hai, điều 102 Bộ luật lao động quy định việc khấu trừ tiền lương:

1. Người sử dụng lao động chỉ được khấu trừ tiền lương của người lao động để bồi thường thiệt hại do làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động theo quy định tại điều 129 của bộ luật này.

2. Người lao động có quyền được biết lý do khấu trừ tiền lương của mình.

3. Mức khấu trừ tiền lương hằng tháng không được quá 30% tiền lương thực trả hằng tháng sau khi trích nộp các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thuế thu nhập cá nhân.

Việc khấu trừ này phát sinh từ quan hệ lao động thông qua hợp đồng lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động.

Còn việc doanh nghiệp cho người lao động vay tiền là quan hệ dân sự, do đó các bên có thể thỏa thuận bằng hợp đồng khác mà không liên quan đến hợp đồng lao động trước đó đã ký kết.

Việc khấu trừ lương trong trường hợp này mà các bên đã thỏa thuận là nghĩa vụ trả nợ từ quan hệ vay mượn (quan hệ dân sự) chứ không phải từ quan hệ lao động. 

Nếu thỏa thuận này các bên tự nguyện và không trái với quy định của pháp luật thì có hiệu lực để các bên thực hiện.

Mời bạn đọc gửi câu hỏi để được luật sư tư vấn

Đăng ký Tuổi Trẻ Sao TẠI ĐÂY

Đăng ký Tuổi Trẻ Sao TẠI ĐÂY

Với đội ngũ các luật sư và chuyên gia pháp lý dày dạn kinh nghiệm trên tất cả các lĩnh vực như hôn nhân - gia đình, kinh doanh - thương mại, mua bán đất đai, sở hữu trí tuệ, lao động, hộ tịch, thừa kế..., chuyên mục Tư vấn pháp luật trên Tuổi Trẻ Sao sẽ giải đáp thắc mắc của bạn một cách nhiệt tình, nhanh chóng, chính xác, hiệu quả.

Bạn đọc vui lòng gửi câu hỏi (gõ bằng tiếng Việt có dấu, font chữ UNICODE) về Tuổi Trẻ Sao qua địa chỉ tuvanphapluat@tuoitre.com.vn.

Tai nạn lao động thương tật 38% nhưng công ty chỉ trả viện phí, vậy đúng không?Tai nạn lao động thương tật 38% nhưng công ty chỉ trả viện phí, vậy đúng không?

Tôi làm công ty, có đóng bảo hiểm. Sau đó tôi bị tai nạn lao động thương tật 38% nhưng chỉ được công ty trả viện phí, chi phí khám bệnh là 38 triệu đồng.

Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên