Theo Hãng tin Bloomberg, Canada có ít ngân hàng hơn cả bang North Dakota của Mỹ. Số lượng ngân hàng ở Nhật Bản chỉ bằng 4% ở Mỹ. Liên minh châu Âu bị phân tán nhiều hơn, nhưng cũng chỉ có 1,2 ngân hàng trên 100.000 người, so với con số 1,4 của Mỹ.
Càng phân mảnh càng nhiều rủi ro
Khi Ngân hàng Signature của New York sụp đổ trong tháng 3 vừa qua, những người gửi tiền ở xa tại các bang Arkansas, Georgia và Ohio đã rất sợ hãi.
Bởi có 4 ngân hàng Signature ở Mỹ và khách hàng không chắc ngay lập tức ngân hàng nào đang gặp rắc rối. Ngân hàng Signature ở bang Arkansas đã phải gửi dòng tweet: “Chỉ là một lời nhắc nhở thân thiện rằng chúng tôi là Signature Bank ở bang Arkansas” trước khi đưa ra một thông báo công khai chính thức.
Cho đến giữa những năm 1980, nhiều bang ở Mỹ không cho phép các ngân hàng hoạt động xuyên bang. Một số thậm chí không cho phép các chi nhánh vượt qua ranh giới quận.
Đến năm 1994, Đạo luật Ngân hàng liên bang Riegle-Neal lại cho phép các ngân hàng mở các chi nhánh nhận tiền gửi vượt khỏi biên giới tiểu bang, bằng cách sáp nhập với các ngân hàng khác.
Những thay đổi trên dẫn đến một làn sóng hợp nhất. Trong 30 năm qua, số lượng ngân hàng ở Mỹ đã giảm với tốc độ khoảng 3% một năm.
Nhưng ngay cả sau nhiều vụ sáp nhập và mua lại, vẫn còn quá nhiều ngân hàng ở Mỹ.
Bài học về sự ổn định chưa bao giờ cũ
Trong sự đánh đổi giữa ổn định tài chính và cạnh tranh, nhiều chính quyền chủ yếu chọn sự ổn định.
Tuần trước, chủ tịch Cơ quan Giám sát thị trường tài chính Thụy Sĩ (FINMA) gạt bỏ những lo ngại về chống độc quyền, khi bà thúc giục Ngân hàng UBS tiếp quản Ngân hàng Credit Suisse đang có nguy cơ sụp đổ.
Đó cũng là một động thái mà các cơ quan quản lý của Anh đã sử dụng trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Khi Ngân hàng Scotland (HBOS) sáp nhập với Ngân hàng Lloyds-TSB năm 2009, đưa 1/3 tài khoản ngân hàng vãng lai của Anh vào tay một tổ chức, các cơ quan về cạnh tranh thương mại đã lo ngại. Nhưng bộ trưởng kinh doanh và thương mại Anh lúc đó, ông Peter Mandelson, nhấn mạnh: “Lợi ích chung của việc đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính Anh vượt xa những lo ngại về cạnh tranh".
Đặc thù Mỹ: Vận động hành lang vào cả ngành ngân hàng
Trong khi đó, các nhà chức trách Mỹ rất "khó tính" trong sự đánh đổi quyền cạnh tranh. Một phần do chính quyền tôn trọng thị trường tư nhân. Mặt khác, chủ yếu là do các ngân hàng nhỏ khai thác được đáng kể sức mạnh vận động hành lang.
Theo Hãng tin Bloomberg, nhiều thành viên Quốc hội Mỹ nằm trong số 25 nhà tài trợ hàng đầu của các ngân hàng nhỏ.
Do đó, các ngân hàng Mỹ phải tuân theo giới hạn về quy mô của họ. Đạo luật Riegle-Neal đã giới hạn các ngân hàng quốc gia ở mức 10% thị phần tiền gửi.
Kết quả là một hệ thống ngân hàng hai cấp ở Mỹ: các ngân hàng lớn, chịu sự giám sát đầy đủ và một loạt ngân hàng nhỏ hơn được miễn trừ.
Cuộc khủng hoảng ngân hàng gần đây ở Mỹ đã bộc lộ sự khác biệt này: hầu hết ngân hàng nhỏ bị các khách hàng rút 98,4 tỉ USD tiền gửi. Trong khi đó, các ngân hàng lớn chứng kiến tiền gửi tăng thêm 67 tỉ USD.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận