
Bác sĩ Jane Wright - Ảnh: cancerhistoryproject.com
Trước đây bệnh nhân ung thư chỉ được điều trị bằng phẫu thuật và xạ trị. Các nhà khoa học đã kiên trì nghiên cứu, từ đó nhiều phương pháp mới ra đời như hóa trị, liệu pháp nhắm trúng đích, liệu pháp miễn dịch và vắc xin.
Y học cổ truyền cũng tham gia cuộc chiến chống căn bệnh ung thư quái ác.
Trong những năm 1940 và 1950, bệnh nhân ung thư chủ yếu được điều trị bằng phẫu thuật và xạ trị (dùng tia phóng xạ) với rất ít hy vọng đối với các ca ung thư di căn. Đến khi hết thuốc chữa, các bác sĩ mới thử nghiệm dùng hóa trị (dùng hóa chất để ngăn tế bào ung thư tiến triển).
Bác sĩ y khoa Jane Cooke Wright là người tiên phong biến hóa trị trở thành liệu pháp chủ yếu trong điều trị ung thư ngày nay.
Thử nghiệm dùng hóa chất ngăn ung thư tiến triển
Sự nghiệp khoa học của bác sĩ Wright bắt nguồn từ nền tảng giáo dục gia đình. Bà xuất thân trong một gia đình Mỹ gốc Phi hiếm hoi hành nghề y vào thời đó. Ông nội sinh ra với thân phận nô lệ nhưng đã nỗ lực tốt nghiệp thủ khoa ngành y. Cha bà - bác sĩ Louis Tompkins Wright là một trong những sinh viên da màu đầu tiên tốt nghiệp Trường Y Harvard danh giá. Thân mẫu bà là giáo viên tiểu học.
Bà sinh ngày 20-11-1919 tại New York, con gái đầu lòng trong gia đình có hai con gái. Trong giai đoạn mà phụ nữ và người da màu ở Mỹ vẫn còn bị coi rẻ rúng, bà đã theo học Trường Y New York và tốt nghiệp hạng xuất sắc vào năm 1945.
Hai năm sau, bà kết hôn với luật sư David D. Jones, Jr., có hai con gái. Sau thời gian làm bác sĩ nội trú, năm 1949 bà làm việc toàn thời gian với cha bà, người sáng lập Quỹ nghiên cứu ung thư Bệnh viện Harlem.
Theo tạp chí y khoa Cureus (Mỹ), vào thời điểm mà hầu hết bác sĩ đều cho rằng không còn phương pháp điều trị ung thư nào hiệu quả ngoài phẫu thuật và xạ trị, bà cùng cha là những nhà khoa học đầu tiên thử nghiệm các tác nhân chống ung thư trực tiếp trên mô người thay vì động vật.
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, các binh sĩ tiếp xúc với khí độc mù tạt thường bị giảm tế bào bạch cầu. Các nhà nghiên cứu suy luận có thể sử dụng hợp chất mù tạt nitơ để ngăn chặn bệnh ung thư máu vì đặc trưng của bệnh này là các tế bào bạch cầu tăng sinh không thể kiểm soát.
Từ năm 1949, bà đã tham gia thử nghiệm sử dụng mù tạt nitơ điều trị cho bệnh nhân mắc ung thư máu ác tính. Kết quả cho thấy bệnh đã thuyên giảm phần nào.
Nhóm nghiên cứu của bà đã tiên phong thử nghiệm triethylenemelamine. Kết quả cho thấy các bệnh nhân mắc ung thư xương và mô mềm, ung thư hạch Hodgkin (bệnh máu ác tính), ung thư bạch cầu mạn dòng tủy (ung thư máu mạn tính dòng bạch cầu hạt), ung thư sùi thể nấm và ung thư hạch bạch huyết đều có phần thuyên giảm.
Năm 1951, phòng thí nghiệm của bà lần đầu tiên chứng minh methotrexate đạt hiệu quả đối với bệnh nhân ung thư vú và ung thư da di căn chứ không chỉ để điều trị ung thư máu. Họ tiếp tục khám phá hiệu quả của methotrexate trong điều trị ung thư hạch bạch huyết và ung thư mô liên kết.
Nhóm nghiên cứu đã đề nghị bổ sung methotrexate và nhóm hợp chất thiotepa (triethylene thio-phosphoramide) vào liệu pháp xạ trị và liệu pháp nội tiết tố cho bệnh nhân ung thư vú giai đoạn cuối.
Hiện nay methotrexate tiếp tục là một trong những loại thuốc hóa trị được sử dụng để điều trị nhiều bệnh ung thư ác tính như ung thư vú, đầu và cổ, phổi, bàng quang, xương, ung thư máu, ung thư hạch bạch huyết và nhiều bệnh ung thư khác.

Năm 1964, Tổng thống Johnson đã bổ nhiệm bác sĩ Jane Wright vào Ủy ban Bệnh tim, ung thư và đột quỵ của tổng thống - Ảnh: cancerhistoryproject.com
Xây dựng nền móng cho y học cá nhân hóa
Sau khi cha qua đời năm 1952, bác sĩ Wright được bổ nhiệm làm giám đốc Quỹ nghiên cứu ung thư Bệnh viện Harlem ở tuổi 33. Cho dù nhiều bác sĩ không mặn mà với liệu pháp hóa trị, bà vẫn hy vọng về khả năng điều trị ung thư bằng thuốc. Bà đã gia nhập Hiệp hội Nghiên cứu ung thư Mỹ năm 1954 và chia sẻ thông tin về hóa trị với nhiều nhà nghiên cứu khác.
Bà cùng nhóm nghiên cứu đi tiên phong trong sử dụng mô khối u của người để định hướng điều trị ung thư. Bằng cách phân lập các tế bào ác tính từ bệnh nhân và nuôi cấy trong ống nghiệm, bà có thể kiểm tra tác dụng của nhiều loại thuốc thử nghiệm trực tiếp lên các tế bào đó, từ đó nhận diện tác nhân nào hiệu quả nhất đối với bệnh ung thư của một cá nhân cụ thể.
Trong bài viết vào năm 1957 trên tạp chí New England Journal of Medicine (Mỹ), nhóm nghiên cứu của bà kết luận nuôi cấy mô nguyên phát (ung thư phát triển trực tiếp từ tế bào chứ không do di căn) có thể là phương pháp có giá trị để lựa chọn tác nhân hóa trị hiệu quả nhất cho khối u nhất định ở một bệnh nhân nhất định.
Đây là bước đầu hướng tới y học cá nhân hóa (chọn phương pháp điều trị phù hợp với từng bệnh nhân) sau này.
Ngoài ra bà còn xác định cần phải dùng thuốc tổng hợp vì ung thư có khả năng thích ứng và kháng thuốc. Trong những năm 1950 và 1960, nhóm nghiên cứu của bà đã thử nghiệm phối hợp thuốc theo trình tự luân phiên, đặt nền móng cho khái niệm hóa trị phối hợp sau này. Kết quả cho thấy kết hợp nhiều chất có thể cải thiện đáng kể kết quả, đặc biệt đối với bệnh bạch cầu cấp tính ở trẻ em và bệnh Hodgkin.
Ngày 9-4-1964, sáu bác sĩ và bác sĩ Wright dùng bữa trưa tại khách sạn Edgewater Beach ở Chicago để cùng chia sẻ mục đích chăm sóc bệnh nhân ung thư tốt hơn. Từ bữa ăn trưa đó, Hiệp hội Ung thư lâm sàng Mỹ ra đời. Cũng trong năm 1964, Tổng thống Lyndon B. Johnson đã bổ nhiệm bà vào Ủy ban Bệnh tim, ung thư và đột quỵ của tổng thống.
Cùng năm đó, bà đã mô tả phương pháp sử dụng truyền động mạch qua ống thông để đưa liều lớn hóa trị vào các khối u ở trực tràng, đại tràng, cổ tử cung, tuyến tụy, thận, da và nhiều vị trí khác. Nghiên cứu cho thấy hóa trị có thể được truyền qua hầu hết các mạch máu chính bằng kỹ thuật này.
Từ năm 1966-1970, bà làm việc trong Ủy ban cố vấn ung thư quốc gia thuộc Viện Ung thư quốc gia Mỹ. Bà nghỉ hưu năm 1987, là tác giả của 135 bài viết khoa học và đóng góp vào chín cuốn sách. Bà qua đời ngày 19-2-2013, hưởng thọ 93 tuổi.
Quỹ Ung thư vú quốc gia (Úc) nhận xét bà là hình mẫu của lòng kiên trì và tinh thần lạc quan mà những ai nỗ lực tiến lên trong cuộc chiến chống ung thư đều cần phải trang bị.
Bác sĩ Jane Wright là người phụ nữ đầu tiên thuộc gia đình người da màu theo học ngành y vào thời phụ nữ và người da màu bị phân biệt đối xử ở Mỹ. Bà là phụ nữ da màu đầu tiên giữ chức phó khoa của một tổ chức y khoa cấp quốc gia (Trường Y New York năm 1967). Bà còn là nữ chủ tịch đầu tiên của Hiệp hội Ung thư New York và thành viên sáng lập Hiệp hội Ung thư lâm sàng Mỹ.
Bà cho biết chính những khó khăn của người cha sống trong xã hội còn nhiều định kiến với người da màu lúc bấy giờ đã truyền cảm hứng cho bà không bao giờ lo sợ thất bại.
***************
Sharon Belvin mắc ung thư hắc tố di căn. Các bác sĩ lo ngại cô không thể sống quá vài tuần. Cô đã tham gia thử nghiệm liệu pháp miễn dịch. Một năm sau, bệnh ung thư khỏi hoàn toàn. Người cứu mạng cô chính là TS James Allison.
>> Kỳ tới: Liệu pháp miễn dịch của TS James Allison
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận