
Đại biểu Quốc hội Trịnh Xuân An (Đồng Nai) đề nghị cần phải có mỏ đất hiếm riêng cho quốc phòng, an ninh - Ảnh: Quốc hội
Bày tỏ quan tâm đến việc quản lý tài nguyên khoáng sản là đất hiếm khi cho rằng đây là tài nguyên chiến lược của nhiều ngành then chốt như bán dẫn, xe điện, quốc phòng, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) cho rằng cần phải đặt an toàn môi trường lên hàng đầu và quản lý thống nhất cấp quốc gia.
Băn khoăn về cơ chế khai thác, chế biến và quản lý đất hiếm
Theo đại biểu, quá trình tuyển tách và chế biến đất hiếm luôn phát sinh chất phóng xạ tự nhiên, kim loại nặng và dung dịch axit khó xử lý. Nhiều quốc gia từng khai thác ồ ạt nhưng thiếu kiểm soát đã để lại vùng ô nhiễm phóng xạ tồn lưu, với chi phí phục hồi môi trường lớn hơn nhiều lần giá trị kinh tế thu được. Vì vậy, đại biểu nhấn mạnh đây là bài học Việt Nam không thể lặp lại.
Cùng đó, đất hiếm có chu kỳ dự án dài, đòi hỏi thử nghiệm công nghệ và đánh giá môi trường sâu. Nếu thời hạn ưu tiên cho nhà đầu tư quá ngắn, doanh nghiệp có thể vội lập dự án, không hình thành được dây chuyền chế biến sâu và dễ quay lại khai thác thô. Vì vậy, luật cần cơ chế linh hoạt hơn để thu hút nhà đầu tư có năng lực công nghệ thực sự.
Còn theo đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp), Việt Nam có đất hiếm nhưng không tập trung mà nằm rải rác. Vì vậy, việc thăm dò để biết nơi nào có hoặc không có đất hiếm là cực kỳ quan trọng, bởi "nếu có thì khai thác thế nào?".
Ông cho hay việc bảo vệ các khoáng sản khác có nhiều cơ chế nhưng với đất hiếm thì rất khó khăn, nếu không quản lý chặt, bảo vệ tốt sẽ dẫn đến khai thác vượt mức, thậm chí người dân cũng khai thác được. Ông đề nghị cơ quan soạn thảo, cơ quan quản lý môi trường quan tâm, quản lý tốt về đất hiếm.
Nhìn từ góc độ quốc phòng, an ninh, đại biểu Quốc hội Trịnh Xuân An (Đồng Nai) đề xuất cần phải có những mỏ đất hiếm hoặc khu dự trữ dành riêng cho mục đích quốc phòng, an ninh. Bởi đất hiếm là nền tảng, công nghệ lõi của rất nhiều vũ khí, đặc biệt với vũ khí chính xác cao.
Cùng đó, cần bổ sung quy định về kiểm soát công nghệ và dữ liệu liên quan đến đất hiếm, đặc biệt là liên quan đến quốc phòng, an ninh. "Dữ liệu đất hiếm có thể thuộc diện bí mật Nhà nước", ông An nhấn mạnh vai trò của Bộ Quốc phòng trong thẩm định chương trình, thẩm định việc khai thác mỏ nên cần có ý kiến của Bộ Quốc phòng.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng - Ảnh: Quốc hội
Đã khoanh định các mỏ để đưa vào khai thác, chế biến sâu
Giải trình làm rõ thêm, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho hay nước ta có trữ lượng đất hiếm đứng thứ hai, thứ ba trên thế giới và nằm ở 21 tỉnh, thành phố. Hiện bộ đã khoanh định cơ bản đầy đủ các khu vực mỏ có khoáng sản và tổ chức quản lý chặt chẽ.
Đồng thời, bộ cũng đang chủ trì cùng các bộ, ngành để xây dựng Chiến lược quốc gia về đất hiếm, trình Chính phủ, Thủ tướng và các cấp có thẩm quyền ban hành đầu năm 2026. Sau khi hoàn thành việc khoanh định các vị trí mỏ, việc rất quan trọng là làm sao để đưa vào khai thác chế biến sâu để mang lại lợi ích cho đất nước.
Theo Bộ trưởng, đây là bước rất quan trọng. Vì vậy, dự thảo đã tách nội dung về đất hiếm ra thành một chương riêng, có những chế tài được quy định làm cơ sở để Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn dưới luật.
“Chúng tôi tin rằng đất hiếm sẽ thực sự trở thành một tài nguyên quan trọng để chúng ta khai thác, phát triển đất nước trong thời gian tới. Việc này sẽ hình thành chuỗi giá trị khép kín và hạn chế tối đa việc xuất khẩu nguyên liệu thô” - Bộ trưởng nêu.
Quy định rõ tiêu chí khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản
Đối với tiêu chí khoanh định khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản, ông Thắng cho hay dự thảo đã thiết kế nguyên tắc để khoanh định khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản, kèm những tiêu chí cụ thể.
Dự thảo cũng giao cho Chính phủ quy định chi tiết các điều kiện, trình tự khoanh định khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Trong quá trình khoanh định sẽ có sự phối hợp liên ngành, đảm bảo đánh giá đầy đủ các yếu tố về nhu cầu thị trường, hiệu quả sử dụng tài nguyên, năng lực của chủ đầu tư, tác động môi trường và sinh kế của người dân, đảm bảo hình thành chuỗi chế biến sâu trong nước.
Theo ông, việc này sẽ giúp kiểm soát được rủi ro ngay từ khâu xác lập khu vực, không để xảy ra tình trạng lợi dụng chính sách đối với các khoáng sản chiến lược đặc biệt quan trọng, không để bị lợi dụng việc chỉ định khu vực gây ra vướng mắc.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận