Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân - Ảnh:Trung tâm báo chí TP.HCM
1. Ngoài dự báo, đại dịch COVID-19 bùng phát toàn cầu sau 70 ngày
Ngày 31-12-2019, Trung Quốc thông báo với Tổ chức Y tế thế giới WHO về việc xuất hiện một loại virus mới gây viêm phổi cấp.
Ngày 11-1-2020, Trung Quốc thông báo ca tử vong đầu tiên vì virus này tại thành phố Vũ Hán. Ngày 25-1 có hơn 1.000 người nhiễm virus tại Vũ Hán, ngày 30-1 gần 5.000 người nhiễm ở Hồ Bắc và hơn 7.700 người toàn Trung Quốc.
Sau một tuần, ngày 7-2, có 22.000 người nhiễm ở Hồ Bắc và 31.000 ở Trung Quốc. Ngày 11-2, sau một tháng từ khi có người chết đầu tiên, tại Trung Quốc có hơn 1.000 người chết và 42.000 người nhiễm virus.
Ngày 11-3-2020, Trung Quốc có hơn 3.000 người chết và 80.000 người nhiễm.
Ngày 13-1-2020, Thái Lan là nước đầu tiên ngoài Trung Quốc công bố có người nhiễm đầu tiên, ngày 16-1 là Nhật Bản; ngày 20-1 là Hàn Quốc; ngày 23-1 là Việt Nam, Mỹ, Hong Kong, Macau; ngày 24-1 là Singapore; ngày 25-1 là Pháp, Úc, Malaysia; ngày 28-1 là Đức, Canada, Campuchia; ngày 30-1 là Ấn Độ, Philippines, Phần Lan; ngày 31-1 là Ý.
Tổng cộng trong tháng 1-2020 có 27 nước có người bị nhiễm virus COVID-19, với tổng dân số 4,3 tỉ người, chiếm 56% dân số thế giới, với tổng giá trị GDP là 66.082 tỉ USD, chiếm 77% GDP toàn cầu.
Đến ngày 31-1 có gần 12.000 người nhiễm, 259 người chết ở 27 nước này.
Không ai dự báo rằng sau 20 ngày có một người chết đầu tiên do COVID-19 ở Trung Quốc, COVID-19 đã lây lan 27 nước và có thể chi phối hơn 1/2 dân số thế giới và hơn 3/4 kinh tế toàn cầu.
Tháng 2-2020 có thêm 34 nước bị nhiễm COVID-19 và đặc biệt tháng 3-2020 có tới 146 nước nữa bị nhiễm. Như vậy, chỉ sau 3 tháng (91 ngày), đã có 207 nước bị nhiễm COVID-19 chiếm 99% dân số thế giới và 99% GDP toàn cầu.
Ngày 11-3-2020, đúng 70 ngày từ ngày 1-1-2020 và hai tháng sau khi có ca chết đầu tiên vì COVID-19 ở Trung Quốc, WHO tuyên bố đại dịch COVID-19 toàn cầu.
Lúc này trên thế giới có 113 nước bị nhiễm (chiếm khoảng 54% tổng số nước bị nhiễm đến hiện nay là 210 nước), 126.124 người đã bị nhiễm, 4.628 người đã chết và 53.279 người đang được điều trị trong các bệnh viện.
Không ai dự báo được là chỉ một tháng sau đó, có thêm 97 nước bị nhiễm và số người nhiễm đã lên đến gần 1,7 triệu người và hơn 105.000 người chết.
Trong bối cảnh chưa có vắcxin ngừa COVID-19, chưa có thuốc đặc trị cho viêm phổi do COVID-19, các nước đã phòng và chống dịch COVID-19 với các quan điểm và phương pháp rất khác nhau, do đó diễn biến dịch ở các nước cũng rất khác nhau.
Đến thời điểm hiện nay, có thể phân ra có 3 nhóm nước xét theo quy mô số người nhiễm:
Nhóm 1: Các nước có trên 100.000 người nhiễm gồm 6 nước: Mỹ (740.000 người nhiễm), Tây Ban Nha (195.000), Ý (176.000), Pháp (152.000), Đức (144.000) và Anh (115.000). Tất cả 6 nước này đều là nước phát triển, có thu nhập đầu người cao (từ 30.000 USD người đến 65.000 USD người), có tổng số người nhiễm là 1,523 triệu người và chiếm tới 65% số người nhiễm toàn cầu, trong khi tổng dân số là 655 triệu người, chỉ chiếm 8,5% dân số thế giới và tạo ra năm 2019 hơn 34.140 tỉ USD GDP, chiếm gần 39% GDP thế giới.
Như vậy, chỉ trong 10 ngày (ngày 23-1 đến 1-2-2020) dịch COVID-19 đã tấn công 6 nước phát triển, chiếm 8,5% dân số thế giới, 39% GDP toàn cầu, với 65% số người nhiễm toàn thế giới và 76% số người chết vì COVID-19.
Xét về mặt thống kê, đến thời điểm hiện nay Mỹ và 5 nước Tây Âu phát triển có dân số từ 46,7-83,8 triệu người là hai trung tâm dịch COVID-19 lớn nhất thế giới và việc phục hồi kinh tế của 6 nước này sẽ là khó khăn nhất và ảnh hưởng rất lớn đến phục hồi kinh tế toàn cầu.
Nhóm 2: Các nước có trên 10.000 người nhiễm đến dưới 100.000 người nhiễm gồm 18 nước, trong đó có Trung Quốc có 82.735 người nhiễm, Thổ Nhĩ Kỳ 82.329, Iran 80.868, Nga 42.853, Ấn Độ: 16.365; Thụy Điển: 13.822, Israel: 13.362, Hàn Quốc: 10.061, Nhật Bản: 10.296...
18 nước này có 584.633 người nhiễm ngày 18-4-2020, chiếm 25% tổng số người nhiễm toàn thế giới và 19.563 người chết, chiếm 12% số người chết toàn cầu, trong khi có dân số 3.657 triệu, chiếm 47,5% dân số thế giới và GDP là 34.694 tỉ USD, bằng 40% GDP toàn cầu.
Như vậy, tổng cộng 2 nhóm nước này gồm:
- 24 nước.
- Dân số 4.312 triệu người, chiếm 56% dân số thế giới.
- Chiếm 90% số người bị nhiễm toàn cầu (2.107 triệu người).
- Chiếm 88% số người chết (142.240 người).
- Chiếm 79% GDP toàn cầu.
Nhóm 3: Các nước có dưới 10.000 người nhiễm, gồm 186 nước:
Cho đến nay có 210 nước bị nhiễm COVID-19, song 186 nước với số người nhiễm ít hơn 10.000 người mỗi nước, tuy chiếm 44% dân số thế giới, chủ yếu là các nước có thu nhập trung bình thấp và thấp, chỉ chiếm có 10% số người nhiễm và 12% số người chết toàn thế giới và tạo ra 21% GDP toàn cầu.
Như vậy, sắp tới có thể dịch COVID-19 sẽ lây mạnh hơn, bùng phát ở 186 nước này, sẽ gây ra hậu quả xã hội rất nghiêm trọng, song hậu quả với kinh tế thế giới không nhiều vì 79% GDP thế giới được tạo ra ở 24 nước khác.
110 ngày đại dịch COVID-19 (1-1-2020 - 19-4-2020)
NHÓM 1
* 6 nước có số người nhiễm ở mỗi nước hơn 100.000 (Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Pháp, Đức, Anh)
- Là các nước giàu, có GDP/người bình quân là 52.000 USD và đóng góp 39% GDP toàn cầu.
- Bị dịch COVID-19 rất nặng:
+ Chỉ chiếm 8,5% dân số thế giới, song:
. Có 65% người nhiễm toàn thế giới.
. Có 76% số người chết toàn thế giới.
+ Bình quân 1 triệu người dân có:
. 2.325 người nhiễm COVID-19 và.187 người chết
. Tỉ lệ chết/số người nhiễm là 8%.
NHÓM 2
* 18 nước có số người nhiễm ở mỗi nước từ 10.000-100.000 người
- Là các nước có thu nhập trung bình cao và một số nước giàu, có GDP/người bình quân là 9.500 USD, đóng góp 40% GDP toàn cầu.
- Bị dịch COVID-19 vừa phải:
+ Chiếm 47,5% dân số thế giới,
. Có 25% số người nhiễm toàn thế giới.
. Có 12% số người chết toàn thế giới.
+ Bình quân 1 triệu người dân có:
. 160 người nhiễm COVID-19.
. 5 người chết.
. Tỉ lệ chết/số người nhiễm là 3%.
NHÓM 3
* 186 nước có số người nhiễm ở mỗi nước dưới 10.000 người
- Đa số là các nước có thu nhập trung bình thấp và thấp, một số ít thu nhập cao nhưng dân số nhỏ, GDP/người bình quân là hơn 5.000 USD, đóng góp 21% GDP toàn cầu.
- Mức độ lây nhiễm COVID-19 thấp, hầu hết chưa có dịch:
+ Chiếm 44% dân số thế giới, nhưng chỉ:
. Có 10% số người nhiễm toàn thế giới.
. Có 12% số người chết toàn thế giới.
+ Bình quân 1 triệu người dân có:
. 74 người nhiễm COVID-19.
. 6 người chết.
. Tỉ lệ chết/số người nhiễm là 7,8%.
2. Sau 110 ngày các xu hướng diễn biến dịch và lây lan COVID-19 đã bộc lộ
Tùy theo quan điểm của lãnh đạo các nước về phòng dịch và chống dịch COVID-19, điều kiện cụ thể của hệ thống y tế, nhận thức về COVID-19 và thói quen sinh hoạt của người dân, mà sau 80 - 90 ngày từ khi có người nhiễm đầu tiên ở một nước, diễn biến lây nhiễm COVID-19 rất khác nhau, có thể dẫn tới đại dịch, dịch vừa phải hoặc không có dịch, chỉ có lây nhiễm kiểm soát được.
Nhóm 6 nước có số người nhiễm đến nay là hơn 100.000 mỗi nước là các nước có đại dịch: chỉ chiếm 8,5% dân số thế giới, song chiếm đến 65% số người nhiễm và 76% số người chết toàn thế giới.
Bình quân 1 triệu dân có 2.325 người nhiễm, 187 người chết. Trong 6 nước này thì 5 nước là Ý, Pháp, Tây Ban Nha, Anh và Mỹ đều đang ở giai đoạn: Số người nhiễm và số người phải được điều trị ở bệnh viện cùng gia tăng mỗi ngày.
Trong đó số người phải điều trị ở bệnh viện ở Anh và Mỹ gia tăng mỗi ngày là cao nhất (4.000 - 18.000 người mỗi ngày).
Tuy nhiên, Đức đã chuyển sang giai đoạn khác 5 nước còn lại: Từ 7-4-2020, số người phải được điều trị tại bệnh viện bắt đầu giảm: từ 72.885 đến ngày 20-4-2020 giảm còn 53.100.
Tỉ lệ số người phải điều trị trên tỉ lệ số người nhiễm đã giảm từ 70,5% ngày 7-4-2020 xuống còn 36,4% ngày 20-4-2020.
Trong vài tuần tới, Ý, Tây Ban Nha và Pháp có thể cũng bắt đầu chuyển giai đoạn như vậy (dịch COVID-19 đạt đỉnh). Riêng với Anh và Mỹ chưa thể dự báo lúc nào chuyển giai đoạn.
Trong 18 nước khác có số người nhiễm dưới 100.000 và trên 10.000, Hàn Quốc đã chuyển giai đoạn từ 11-3-2020: Số người phải điều trị đạt đỉnh là 7.562 người vào ngày này, sau đó giảm dần và ngày 20-4-2020 chỉ còn 2.324. Tỉ lệ người phải điều trị ở bệnh viện so với số người nhiễm giảm từ 95% xuống còn 22%.
Iran đã chuyển giai đoạn từ 6-4-2020: Số người phải điều trị giảm từ 32.621 đến ngày 18-4-2020 còn 20.402, tỉ lệ điều trị giảm từ 53% xuống còn 25,8% số người nhiễm.
Trong số 186 nước có số người nhiễm dưới 10.000 đã có nhiều nước chuyển giai đoạn. Việt Nam đã chuyển giai đoạn vào 29-3-2020, số người phải điều trị ở các bệnh viện giảm từ 163 xuống còn 65 vào ngày 19-4, tỉ lệ điều trị giảm từ 86,7% số người nhiễm xuống còn 24%.
Ngày 6-4-2020, Đài Loan chuyển giai đoạn: Số người phải điều trị giảm từ 311 xuống còn 214 vào ngày 18-4, tỉ lệ điều trị ở bệnh viện giảm từ 83% xuống còn 54%.
Ngày 8-4-2020, Thái Lan chuyển giai đoạn: Số người điều trị tại bệnh viện giảm từ 1.451 xuống còn 899 vào ngày 18-4, tỉ lệ điều trị giảm từ 61% xuống còn 33% số người nhiễm COVID-19. Như vậy, theo nghiên cứu chưa đầy đủ, đến nay đã có ít nhất 7 nước chuyển giai đoạn trong việc phòng chống dịch COVID-19:
- Nhóm 1: Đức chuyển giai đoạn ngày 7-4-2020.
- Nhóm 2: Trung Quốc: khoảng 18-2-2020; Hàn Quốc: 11-3-2020; Iran: 6-4-2020;
- Nhóm 3: Việt Nam: 29-3-2020; Đài Loan: 6-4-2020; Thái Lan: 8-4-2020.
Ngày 11-3-2020, khi WHO tuyên bố đại dịch COVID-19 toàn cầu, số người bị nhiễm trên 1 triệu dân là 16,4 người và số người đang điều trị ở các bệnh viện là 6,9 người/1 triệu dân. Đối chiếu với các tham số này, xem xét thời điểm các nước chuyển giai đoạn, có thể xếp loại mức độ dịch COVID-19:
- Nhóm 1: Đức, dân số 83,8 triệu người, chuyển giai đoạn 7-4-2020: tỉ lệ người nhiễm COVID- 19 trên 1 triệu dân là 1.233 người (lớn hơn rất nhiều 16,4 người trên 1 triệu dân); tổng số người đang điều trị tại bệnh viện: 72.865; tỉ lệ người đang điều trị /1 triệu dân: 870 (lớn hơn rất nhiều 6,9 người/1 triệu dân).
XẾP LOẠI: ĐẠI DỊCH.
- Nhóm 2: Hàn Quốc, dân số 51,27 triệu người, chuyển giai đoạn 11-3-2020: tỉ lệ người nhiễm COVID-19 trên 1 triệu dân là 151 người (lớn hơn nhiều 16,4 người trên 1 triệu dân); tổng số người đang điều trị tại bệnh viện: 7.362; tỉ lệ người đang điều trị/1 triệu dân: 143 (lớn hơn nhiều 6,9 người/1 triệu dân).
XẾP LOẠI: DỊCH MỨC TRUNG BÌNH.
- Nhóm 3:
+ Thái Lan, dân số 69 triệu người, chuyển giai đoạn 8-4-2020: tỉ lệ người nhiễm trên 1 triệu dân là 34 (cao hơn 16,4/1 triệu dân một chút); tổng số người đang điều trị: 1.451; tỉ lệ người điều trị/1 triệu dân: 21 (cao hơn 6,9 người/1 triệu dân 1 chút).
XẾP LOẠI: DỊCH NHẸ.
+ Việt Nam, dân số 99 triệu người, chuyển giai đoạn 29-3-2020: tỉ lệ người nhiễm trên 1 triệu dân là 1,9 (thấp hơn rất nhiều 16,4/1 triệu dân); tổng số người đang điều trị: 163; tỉ lệ người điều trị/1 triệu dân: 1,6 (thấp hơn rất nhiều 6,9 người/1 triệu dân). 38/63 tỉnh, thành phố (60%) không có người nhiễm từ 23-1-2020. Hệ số lây nhiễm là 0.64.
XẾP LOẠI: KHÔNG CÓ DỊCH.
3. Làm gì bây giờ và đến cuối năm 2020
Các nước có đại dịch và dịch ở mức trung bình, nhưng số người phải điều trị ở bệnh viện vẫn không ngừng tăng lên (Mỹ, Anh, Singapore, Nhật Bản, Ấn Độ, Nga, Thụy Điển…) sẽ phải tìm mọi cách để chặn đứng sự lây nhiễm cho đến khi nào số người phải điều trị tại các bệnh viện không tăng mà giảm: Lúc đó họ sẽ chuyển giai đoạn.
Một số giải pháp sẽ được giải quyết trong giai đoạn này là: Cấm đi lại trên toàn quốc (trừ các trường hợp đặc biệt) hoặc ở các vùng có tỉ lệ tổng số người phải chữa bệnh cao, cách ly người bị nhiễm và người đã tiếp xúc, nâng cao năng lực các bệnh viện, chăm sóc các nhà dưỡng lão, đảm bảo đáp ứng thực phẩm, dịch vụ y tế cho nhân dân.
Các nước đã chuyển giai đoạn, phải thiết kế lộ trình và các điều kiện phù hợp để nới lỏng sự hạn chế đi lại, tiếp xúc, giao lưu của người dân, mở lại trường học, cửa hàng, các dịch vụ một cách phù hợp, đưa ra các quy tắc ứng xử và quy chế hoạt động mới của cơ quan, doanh nghiệp, địa phương để không làm lây lan COVID-19 mạnh dẫn đến dịch.
Chừng nào chưa có vắcxin thì khi đó không thể loại trừ lây nhiễm COVID-19, song có thể được kiểm soát như đã và đang kiểm soát các bệnh truyền nhiễm khác.
Mỗi người, mỗi cơ quan doanh nghiệp, ngành nghề phải chấp nhận một số quy định về hành vi cá nhân và hoạt động của cơ quan mình, doanh nghiệp của mình, tổ chức của mình, địa phương của mình khác trước để phòng bệnh truyền nhiễm COVID-19 và ngăn chặng không để xảy ra dịch COVID-19
Một số trạng thái bình thường mới có thể hình dung như:
1. Việc đeo khẩu trang có thể là bắt buộc khi hoạt động cộng đồng: Đi học, đi chợ, đi du lịch, người trên phương tiện giao thông công cộng, khi gặp gỡ giao lưu với người khác trong một thời gian nhất định (3 tháng, 6 tháng, 1 năm hoặc lâu hơn).
2. Người từ các nước đang có dịch hay lây nhiễm COVID-19 đến Việt Nam phải được thử có virus hay không và cách ly 14 ngày nếu có dấu hiệu đáng nghi ngờ lây nhiễm. Ngay lúc xuống máy bay, rời xe lửa, ôtô có thể phải được thử (xác xuất hoặc tập trung vào một số đối tượng hoặc một thời gian nhất định).
3. Khi phát hiện có người bị dương tính với COVID-19 thì người đó và tất cả những người tiếp xúc (F1, F2, F3) phải được cách ly triệt để, ít nhất 14 ngày.
4. Khoảng cách giữa người với người trong các hoạt động thường xuyên (sản xuất, nhà hàng, nhà hát, lớp học, tàu xe…) phải được quy định, có mức tối thiểu.
5. Quy mô một số hoạt động đông người bị giới hạn trong một thời gian nhất định (sự kiện văn hóa, thể thao, mitting, du lịch, hội họp…)
6. Thường xuyên phải rửa tay sát khuẩn, xe, phương tiện giao thông được sát khuẩn định kỳ.
Theo các hướng này, các cơ quan, doanh nghiệp phải đặt ra các quy tắc ứng xử và quy chế hoạt động của các cơ quan, đơn vị thuộc từng ngành nghề để sản xuất, kinh doanh, học tập, khám chữa bệnh, vui chơi giải trí, đáp ứng tốt nhu cầu của cá nhân và doanh nghiệp, trường học, bệnh viện mà không làm lây nhiễm COVID-19. Trong tháng 4-2020, TP.HCM cần hoàn thành các công việc này để triển khai áp dụng từ tháng 5-2020.
Do nhiều nền kinh tế là đối tác thương mại và đầu tư của Việt Nam còn đang chống dịch, kinh tế chưa phục hồi nên cần lấy nhu cầu trong nước của 99 triệu dân và của nền kinh tế làm thị trường mục tiêu cho các doanh nghiệp, đồng thời bám sát nhu cầu tăng lên từng ngày của các nước đã chuyển giai đoạn để thúc đẩy xuất khẩu, đầu tư hai chiều với các đối tác này.
Việc chuyển từ trạng thái chống dịch ở các nước đang có dịch hoặc phòng dịch ở các nước chưa có dịch, tuy có lây nhiễm ở quy mô nhỏ, sang trạng thái bình thường mới đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành với sự tham gia tích cực, hiểu biết và nghiêm túc của người dân trong một lộ trình khác nhau cho các loại hoạt động khác nhau từ nay đến hết năm 2020, để mỗi địa phương và đất nước phục hồi đời sống và sản xuất kinh doanh nhanh nhất với điều kiện không để xảy ra nguy cơ dịch đáng kể.
Từ thực tiễn của Việt Nam và bài học của các nước có thể hình dung: Nếu kiểm soát xâm nhập dịch từ bên ngoài vào Việt Nam tốt, phòng dịch trong nước ở tất cả các địa phương, ngành nghề, gia đình và mỗi người tốt thì khi số người nhiễm COVID-19 cần điều trị một lúc ở Việt Nam không quá 1.000 người, thậm chí lên đến 2.000 người thì hệ thống y tế Việt Nam vẫn xứ lý được, không quá tải, không gây rối loạn bệnh viện và xã hội.
Điều trị một lúc 1.000 bệnh nhân COVID-19 ở Việt Nam sẽ là điều bình thường, không có dịch COVID-19. Vừa qua lúc cao nhất Việt Nam chỉ điều trị 163 ca nhiễm COVID-19, sau đó giảm dần, bây giờ chỉ còn 65 ca.
Hệ số lây nhiễm COVID-19 ở Việt Nam trong gần 90 ngày qua là 0,65, tức nhỏ hơn 1, do đó đã không có dịch COVID-19 ở Việt Nam.
Với sự chỉ đạo kịp thời của Đảng, sự chỉ đạo và tổ chức thực hiện quyết liệt của Chính phủ, sự chủ động, sáng tạo triển khai của cấp ủy và chính quyền các địa phương, sự lăn xả và hi sinh của đội ngũ y bác sĩ, sự chia sẻ của mọi tầng lớp nhân dân, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, chúng ta đã làm nên kết quả rất đáng tự hào:
Một đất nước gần 100 triệu dân, ở ngay sát trung tâm dịch của thế giới đầu năm 2020, GDP đầu người chỉ 3.000 USD song cả nước ta chỉ có 268 người bị nhiễm, đã điều trị khỏi hầu hết, không có người chết, trong khi 95% năng lực giường bệnh điều trị COVID-19 chưa sử dụng đến.
Việt Nam đã phòng dịch xuất sắc, đã chuyển giai doạn từ 29-3-2020 nên không xảy ra dịch COVID-19 trong khi đại dịch COVID-19 bùng phát toàn cầu.
Bây giờ là lúc mỗi người dân và hệ thống chính trị không được chủ quan, tự buông lỏng kỷ cương, phải chuẩn bị tích cực nhất để từ tháng 5-2020 thực hiện lộ trình chuyển toàn bộ đời sống xã hội, đời sống kinh tế sang trạng thái bình thường mới với mình và cùng cả thế giới.
Một số trạng thái bình thường mới có thể hình dung như:
1. Việc đeo khẩu trang có thể là bắt buộc khi hoạt động cộng đồng: Đi học, đi chợ, đi du lịch, người trên phương tiện giao thông công cộng, khi gặp gỡ giao lưu với người khác trong một thời gian nhất định (3 tháng, 6 tháng, 1 năm hoặc lâu hơn).
2. Người từ các nước đang có dịch hay lây nhiễm COVID-19 đến Việt Nam phải được thử có virus hay không và cách ly 14 ngày nếu có dấu hiệu đáng nghi ngờ lây nhiễm. Ngay lúc xuống máy bay, rời xe lửa, ôtô có thể phải được thử (xác suất hoặc tập trung vào một số đối tượng hoặc một thời gian nhất định).
3. Khi phát hiện có người bị dương tính với COVID-19 thì người đó và tất cả những người tiếp xúc (F1, F2, F3) phải được cách ly triệt để, ít nhất 14 ngày.
4. Khoảng cách giữa người với người trong các hoạt động thường xuyên (sản xuất, nhà hàng, nhà hát, lớp học, tàu xe…) phải được quy định, có mức tối thiểu.
5. Quy mô một số hoạt động đông người bị giới hạn trong một thời gian nhất định (sự kiện văn hóa, thể thao, mittinh, du lịch, hội họp…)
6. Thường xuyên phải rửa tay sát khuẩn, xe, phương tiện giao thông được sát khuẩn định kỳ.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận