
Các cựu phóng viên chiến trường quốc tế trải nghiệm tuyến metro số 1 (TP.HCM) vào sáng 28-4 - Ảnh: NGỌC ĐỨC
Kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước, Bộ Ngoại giao đã mời hơn 50 cựu phóng viên chiến trường từng tác nghiệp tại Việt Nam và phóng viên kiều bào đến thăm TP.HCM.
Tuổi Trẻ lắng nghe câu chuyện của hai phóng viên quốc tế hiếm hoi từng tận mắt chứng kiến khoảnh khắc cuộc chiến kết thúc và tất cả đều bình yên ngay sau đó. Họ cũng chia sẻ về những ngạc nhiên về những bước phát triển hiện tại của TP.HCM.
Giấc ngủ ngon ngay đêm hòa bình đầu tiên
Ông Nayan Ranjan Chanda (79 tuổi) là một trong số ít các phóng viên quốc tế còn ở lại Sài Gòn sau ngày 30-4-1975 để tiếp tục ghi nhận tình hình sau giải phóng.
Ông kể vào khoảng giữa tháng 4-1975, ông nhận được một tin nhắn khẩn từ biên tập viên ở Hong Kong rằng ông nên rời đi vì "không câu chuyện nào đáng để đánh đổi mạng sống cả".
Lúc này ông đang giữ vị trí trưởng văn phòng ở Sài Gòn cho tạp chí Far Eastern Economic Review.
"Tôi viết thư trả lời, nói rằng tôi đã theo dõi lịch sử Việt Nam suốt một thời gian dài và tôi muốn chứng kiến hồi kết của trận chiến này. Đó là trách nhiệm của tôi, không cần phải trả phí để bảo hiểm cho tôi", ông kể.
Trước khi đến Việt Nam trong vai trò phóng viên, ông Chanda đã có thời gian dài là học giả nghiên cứu lịch sử Việt Nam và Campuchia. Nhờ hai vai trò này, ông nhận thức được tầm quan trọng của những sự kiện sắp diễn ra.
"Tôi hiểu rằng những gì sắp diễn ra ở Việt Nam lúc ấy là một khoảnh khắc lịch sử cực kỳ kịch tính. Là một người học lịch sử, tôi không thể bỏ qua cơ hội đó - được chứng kiến lịch sử diễn ra ngay trước mắt, không phải ngồi trong thư viện hay xem trên truyền hình" - ông giải thích thêm và nói rằng mình cũng không hành động liều lĩnh mà luôn cẩn thận.
Ông Chanda nhớ lại: "Tôi cúi thấp người, thậm chí nằm rạp xuống đất, khi có tiếng súng nổ. Nhưng tôi không cảm thấy sợ. Bởi vì tôi không nghĩ rằng những người lính Việt Nam sẽ bắn bừa bãi vào dân thường".
Sáng 30-4, ông Chanda ngồi ở văn phòng Hãng tin Reuters ở góc dinh Độc Lập. Ông đồng ý viết bài cho Reuters bởi đội ngũ thường trú của họ đã rút đi.
"Tôi nhận các cuộc gọi từ Chợ Lớn và Gia Định báo tin rằng mọi người bắt đầu kéo cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Tôi biết chắc chắn hồi kết đã cận kề", ông Chanda kể.
Khi đang đánh máy lại những thông tin đó thì ông nghe thấy một tiếng động lớn vọng qua cánh cửa đang mở.
Nhìn ra, ông thấy một chiếc xe tăng băng ngang qua khung cửa, trên đại lộ Thống Nhất (đường Lê Duẩn hiện nay - PV). Ông thốt lên "Ôi, Chúa ơi, họ đã tới rồi!" và vội lao ra ngoài với chiếc máy ảnh, chụp được bức ảnh xe tăng tiến đến cổng dinh.
"Tôi vừa tiến lại gần những chiếc xe tăng, vừa vẫy tay chào những người lính ngồi trên đó. Khi họ vẫy tay đáp lại, tôi biết họ đã nhận ra tôi không có ý thù địch. Lúc đó tôi không hề có cảm giác sợ hãi. Điều quan trọng nhất đối với tôi lúc ấy, vì tôi là một phóng viên, là tôi cần phải chụp được khoảnh khắc đắt giá ấy", ông nói.
Sau khi chụp được ảnh, ông chạy về văn phòng và gửi một dòng tin nhanh với nội dung: "Hôm nay, lúc 11h25, chiến tranh tại Việt Nam kết thúc".
"Đêm hôm đó tôi đã ngủ rất ngon. Không còn tiếng trực thăng lượn trên đầu, không còn tiếng pháo kích. Tôi chợt cảm thấy: đó chính là hòa bình. Tôi có thể thực sự ngủ yên", ông nhớ lại.

Hạ tầng cơ sở TP.HCM phát triển hiện đại bền vững - Ảnh: QUA NG ĐỊNH
Những bình yên bất ngờ
Nhà báo Jim Laurie của đài NBC News (Mỹ) là một trong số ít phóng viên chiến trường cũng bám trụ lại Sài Gòn. Giống như ông Chanda, ông Laurie đã được cơ quan yêu cầu di tản khỏi Việt Nam nhưng ông chọn ở lại để trực tiếp chứng kiến thời khắc lịch sử.
"Chúng tôi không biết điều gì sẽ xảy ra. Chúng tôi không ngờ chính quyền Sài Gòn sụp đổ chỉ trong hai tuần. Nhưng chúng tôi biết rằng quân giải phóng là đội quân có kỷ luật. Hà Nội từng mời nhiều người Mỹ đến thăm họ, do đó chúng tôi không nghĩ rằng mình sẽ gặp nguy hiểm với chính quyền mới", ông Laurie chia sẻ.
Khi đó nỗi sợ duy nhất của ông lại chính từ những người lính trong quân đội Sài Gòn khi các phóng viên nước ngoài sợ rằng những người lính cảm thấy mình bị Mỹ "phản bội" sẽ tìm đến họ để trả thù.
Tuy nhiên mọi thứ vẫn hầu như yên bình cho đến thời khắc xe tăng của quân giải phóng tiến vào dinh Độc Lập.
Ông Laurie kể thoạt đầu sau khoảnh khắc ấy, mọi thứ im lặng như tờ. Tuy nhiên, rất nhanh, đến chiều người dân bắt đầu xuống đường để gặp quân giải phóng. Nhưng chuỗi ngạc nhiên của ông Laurie chưa kết thúc.
Chỉ một ngày sau giải phóng, Ủy ban Quân quản đã cho phép toàn bộ hàng quán, kể cả chợ Bến Thành, mở cửa trở lại. Ông Laurie đã có thể ăn phở, uống cà phê tại quán Givral (quán cà phê từng rất nổi tiếng ở trung tâm Sài Gòn).
Sau ngày 30-4, ông cùng đồng nghiệp đi về các tỉnh ĐBSCL để ghi nhận tình hình. Một lần nữa họ ngạc nhiên khi thấy người dân đã bắt đầu ra đồng làm ruộng, bộ đội đã xây xong các cây cầu tạm.
Chỉ chưa đầy một tuần sau khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ, đời sống của người dân miền Nam đã bình thường trở lại.
Ông Laurie ở lại Việt Nam khoảng ba tuần mới rời đi. Trong suốt thời gian này, ông gần như không gặp trở ngại nào từ chính quyền quân quản khi đi tác nghiệp. Ông cho biết từ đó đến nay, hầu như năm nào ông cũng trở lại Việt Nam để ghi nhận những thay đổi của đất nước.

Các phóng viên quốc tế chụp ảnh từ tàu metro - Ảnh: BÌNH MINH
Ấn tượng mạnh mẽ với metro số 1
Sáng 28-4, đoàn cựu phóng viên quốc tế được trải nghiệm tuyến metro số 1. Các phóng viên đều có chung nhận định rằng đây là tuyến đường hiện đại, ấn tượng.
Ông Kenneth Ellery Wagner, cựu phóng viên Hãng tin UPI, chia sẻ với Tuổi Trẻ: "Tuyến metro của TP.HCM có chất lượng cao hơn rất nhiều hệ thống ở các TP San Francisco, Oakland và khu vực Bay Area (bang California). Tôi chưa từng thấy hệ thống nào tốt như vậy và tôi rất ấn tượng".
Ông Wagner cũng nhấn mạnh sự thay đổi của Sài Gòn thời chiến so với TP.HCM ngày nay quá lớn khiến ông "khó có thể chấp nhận" đây là cùng một địa điểm. Dù đã quay lại thăm TP.HCM nhiều lần nhưng ông chưa từng bắt gặp cảnh tượng nào quen thuộc ngày xưa.
TP.HCM minh chứng cho sức sống mạnh mẽ của ASEAN
Tổng lãnh sự Indonesia tại TP.HCM Agustaviano Sofjan chia sẻ với Tuổi Trẻ về tình cảm và kỳ vọng dành cho Việt Nam, đặc biệt là TP.HCM, trước thềm kết thúc nhiệm kỳ vào cuối tháng 4 tới.
Trong suốt 3 năm 7 tháng công tác tại TP.HCM, ông Sofjan cùng các cộng sự đã nỗ lực không ngừng nghỉ để tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai nước và giữa TP.HCM với các đô thị lớn của Indonesia.
Sức mạnh của sự gắn bó
Ông Sofjan chia sẻ ông đang đếm những ngày cuối cùng ở Việt Nam. Ông nói trong ông có nhiều cảm xúc lẫn lộn nhưng trên hết là cảm thấy biết ơn vì được đến đây cùng gia đình và được bao quanh bởi sự ấm áp của bạn bè Việt Nam.
"Trước khi đến TP.HCM vào đầu nhiệm kỳ, tôi đã không hình dung được sự sôi động của nơi này. Tôi đã ấn tượng sâu sắc với sức sống mãnh liệt, sự trẻ trung và bầu không khí sôi nổi của TP", ông Sofjan nói.
Trải qua gần bốn năm tại đây, ông kết luận: "Theo tôi, TP.HCM chính là hình ảnh thu nhỏ, phản ánh sức sống mạnh mẽ của cả khu vực Đông Nam Á - một khu vực nhiều hứa hẹn và tràn đầy năng lượng. Tôi tin rằng với đà phát triển tích cực như hiện nay, TP.HCM sẽ tiếp tục vươn mình mạnh mẽ".
Đối với ông Sofjan, thành tích đáng tự hào nhất trong nhiệm kỳ ở TP.HCM là cùng Tổng lãnh sự quán Indonesia tại TP.HCM cố gắng hết sức tạo môi trường tốt nhất cho sự phát triển quan hệ song phương Indonesia - Việt Nam, nhất là với TP.HCM.
"Chính sức mạnh gắn bó ấy giúp quan hệ Indonesia - Việt Nam ngày càng bền chặt. Chúng ta có mối quan hệ rất lâu đời. Ngay từ 500, 600 năm trước đã có bằng chứng về sự giao thiệp giữa hai nước. Nhìn vào những trang sử hiện đại, ta càng thấy rõ điều đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng thống Sukarno - hai vị cha già lập quốc, cùng chia sẻ một khát vọng về quốc gia tự do, độc lập, vững mạnh.
Tinh thần đoàn kết ấy, từ quá khứ cho tới hiện tại, thấm đượm trong từng cấp độ hợp tác, từ cấp lãnh đạo cao nhất cho đến giao lưu nhân dân", ông Sofjan nói.
Động lực kinh tế của TP.HCM sẽ năng động hơn trước
Trong chuyến thăm của Tổng Bí thư Tô Lâm đến Jakarta hồi đầu tháng 3, Việt Nam và Indonesia đã chính thức nâng cấp quan hệ lên thành Đối tác chiến lược toàn diện.
Theo ông Sofjan, điều này mở ra một hướng đi mới cho phép quan hệ giữa hai nước không chỉ củng cố về chiều sâu mà còn rộng ra trên nhiều lĩnh vực.
"Tầm nhìn này phù hợp với khát vọng thế kỷ của cả hai nước. Đó là trở thành các quốc gia phát triển vào năm 2045, dịp hai nước cùng kỷ niệm 100 năm lập quốc.
Nhờ hợp tác, Indonesia và Việt Nam có thể cùng trở thành đầu tàu phát triển của khu vực, không chỉ đóng góp cho ASEAN mà còn cả thế giới" - tổng lãnh sự Indonesia bày tỏ.
Trên hành trình ấy, ông Sofjan cho rằng TP.HCM có thể mở rộng hợp tác với những TP năng động khác của Indonesia, đặc biệt là khu vực đại đô thị Jakarta. Hai TP chia sẻ nhiều thế mạnh cũng như thách thức chung, biến cả hai thành đối tác lý tưởng của nhau.
Tiềm năng này sẽ càng mở rộng sau khi TP.HCM hoàn thành sáp nhập, trở thành động lực kinh tế còn năng động hơn trước. TP.HCM sau sáp nhập có nhiều điểm tương đồng với mô hình đại đô thị Jakarta, giúp mở ra cơ hội hợp tác đô thị bền vững mới.
Chuyển đổi số chính là một trong những lĩnh vực mà hai TP nên tập trung để tối ưu tiềm năng hợp tác.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận