
Hiện trường vụ tai nạn khiến nhiều người thiệt mạng trên đèo Khánh Lê - Ảnh: Sở Xây dựng Khánh Hòa
Vụ sạt lở đất đá trên tuyến đèo Khánh Lê (tỉnh Khánh Hòa) ngày 17-11 làm 6 người tử vong là lời cảnh tỉnh đau xót về mức độ nguy hiểm của loại hình thiên tai đang diễn ra ngày càng dồn dập, khó lường.
Từ quy luật tự nhiên đến sức ép của con người
Sạt lở đất, dù ở miền núi hay các tuyến đèo, do chịu tác động chủ yếu từ tự nhiên, nhưng cũng có những khu vực chịu sự tương tác cộng hưởng giữa tự nhiên và các can thiệp kinh tế - xã hội của con người.
Trước hết mưa lớn kéo dài và bão gây ra tình trạng đất bão hòa nước, làm mất hoàn toàn độ ổn định của lớp đất mặt. Khi lượng nước thẩm thấu vượt quá khả năng chịu tải, cấu trúc đất suy yếu và xảy ra trượt lở.
Những năm gần đây, nhiều đợt mưa lớn bất thường đã dẫn đến hàng loạt vụ sạt lở ở miền Trung, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc.
Đặc điểm địa hình đồi núi dốc kết hợp lớp đất đá phong hóa mạnh là "điểm yếu tự nhiên". Các vết nứt địa chất, khối trượt cổ, nền đá kém liên kết… tạo thành "bẫy" sạt lở nếu gặp mưa lớn hoặc rung chấn.
Sự suy giảm thảm thực vật làm giảm đáng kể khả năng giữ đất. Rễ cây là "lưới neo tự nhiên", giúp cố định lớp đất tầng trên. Khi rừng bị mất hoặc suy thoái, đất dễ bị rửa trôi, trượt sạt hơn nhiều lần.
Biến đổi khí hậu khiến mưa lớn xảy ra với tần suất và cường độ cao hơn. Các đợt mưa cực đoan xuất hiện dày đặc, tạo áp lực lớn lên các sườn dốc vốn đã yếu.
Trong khi đó, nguyên nhân nhân tạo thường xuyên đóng vai trò "kích hoạt", hoặc làm trầm trọng hơn tình trạng sạt lở.
Phá rừng, chuyển đổi đất rừng, khai thác khoáng sản và đào - đắp đất làm đường đã làm thay đổi trạng thái cân bằng tự nhiên trên các sườn dốc. Mất rừng đồng nghĩa với mất đi lớp phủ bảo vệ và hệ rễ cố định đất. Hoạt động khai khoáng, mở đường núi, xẻ dốc quá mức làm giảm chân sườn, thay đổi dòng chảy và áp lực đất đá.
Bên cạnh đó, giao thông phát triển kéo theo phương tiện có tải trọng và vận tốc cao. Khi mực nước ngầm lớn vào mùa mưa, các sóng chấn động từ phương tiện truyền nhanh và mạnh hơn, gây phá vỡ kết cấu đất đá. Đây là yếu tố mới nhưng ngày càng quan trọng trong cơ chế sạt lở tại các tuyến đèo.
Việc xây dựng nhà cửa, công trình dưới chân hoặc trên đỉnh dốc cũng tạo ra tải trọng mới, gây mất ổn định mặt sườn. Nhiều vụ sạt lở ở khu dân cư miền núi có nguyên nhân từ việc xây dựng thiếu khảo sát địa chất.
Hệ thống thoát nước yếu hoặc thiếu rãnh dẫn mưa khiến nước đọng lại, thẩm thấu sâu, làm tăng áp lực nước lỗ rỗng và giảm độ bền của đất. Đây chính là một trong những nguyên nhân được chỉ ra tại nhiều điểm sạt lở ở miền Trung và Đà Nẵng.
Đáng lo ngại hơn cả là khi sườn dốc đã bị suy yếu bởi bàn tay con người, chỉ cần một trận mưa không quá lớn cũng đủ gây sụt trượt nghiêm trọng.
Mất mát sinh mạng, tổn thương phát triển
Sạt lở đất gây ra những thiệt hại rất lớn và lan tỏa.
Trước hết là mất mát về người. Vụ sạt lở ở đèo Khánh Lê làm 6 người tử vong, nhiều người bị thương. Đó không chỉ là con số thống kê mà còn là nỗi đau cho gia đình và cộng đồng.
Thiệt hại về tài sản và hạ tầng: nhà cửa bị cuốn trôi, mặt đường bị phá hủy, cầu cống gãy đổ… Nhiều tuyến quốc lộ huyết mạch bị chia cắt nhiều ngày, gây đình trệ lưu thông, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, giao thương và hoạt động cứu hộ cứu nạn.
Đất sản xuất bị phá hủy hoặc trôi xuống vực, để lại mặt trượt đá trơ không còn giá trị sử dụng. Ở nhiều nơi, người dân phải bỏ ruộng vì đất không còn an toàn.
Sạt lở gây ô nhiễm môi trường, bồi lấp sông suối, ảnh hưởng lâu dài tới hệ sinh thái và nguồn nước sinh hoạt.
Thiệt hại kinh tế là rất lớn. Để giảm thiểu rủi ro sạt lở, việc đầu tiên là rà soát khẩn cấp các sườn dốc nguy cơ cao: mái ta luy dọc đường, nơi có vết nứt, khu vực đào đắp hoặc bị mất rừng. Cần lập bản đồ cảnh báo sạt lở theo từng đoạn đường, từng khu dân cư.
Tiếp theo là cảnh báo và sơ tán kịp thời. Khi có mưa lớn, bão hoặc cảnh báo từ ngành khí tượng, người dân và lái xe cần được thông tin sớm để hạn chế di chuyển qua đèo, sườn dốc nguy hiểm.
Gia cố sườn dốc bằng tường chắn, lưới thép, neo đất, các rãnh thoát nước mặt, lan can chắn đá… là biện pháp thiết thực để giảm nguy cơ trong mùa mưa. Ứng dụng công nghệ sinh học - trồng cỏ, các loài cây bám rễ mạnh có thể giúp ổn định đất hiệu quả và kinh tế.
Đồng thời tạm dừng các hoạt động khai thác đất đá, mở đường, xây dựng công trình ở những khu vực đang xuất hiện dấu hiệu mất ổn định địa chất.
Kết nối hệ thống cảnh báo khí tượng với dữ liệu địa hình, độ ẩm đất, mực nước ngầm để đưa ra ngưỡng cảnh báo sạt lở riêng cho từng vùng.
Về chiến lược, phải quy hoạch lại việc sử dụng đất dốc. Những khu vực có độ dốc lớn hoặc nền đất yếu tuyệt đối không được xây dựng nhà cửa, công trình nặng hoặc bố trí dân cư.
Phục hồi rừng là biện pháp căn cơ nhất. Rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng ven sườn dốc là "lá chắn tự nhiên" hạn chế sạt lở.
Ngành giao thông cần có nghiên cứu riêng cho kết cấu đường tại các khu vực có mực nước ngầm cao, nhằm giảm chấn động lan truyền gây phá vỡ nền đất.
Việc xây dựng ta luy, bậc hóa mái dốc, sử dụng cảm biến chuyển vị, thiết bị đo mực nước ngầm… cũng cần được đưa vào tiêu chuẩn thiết kế và quản lý đường miền núi.
Một yêu cầu nữa là tích hợp quản lý rủi ro sạt lở vào quy hoạch vùng, đặc biệt các khu vực có khai thác khoáng sản, tuyến giao thông chiến lược, khu kinh tế ven biển và đồi núi.
Cuối cùng, nâng cao nhận thức cộng đồng. Người dân cần nhận biết các dấu hiệu sạt lở như nứt đất, sụt nền, dòng chảy đục hoặc bất thường để chủ động di dời.
Vụ sạt lở đau lòng ở đèo Khánh Lê nhắc nhở chúng ta rằng phát triển kinh tế - giao thông phải đi đôi với an toàn địa chất và bảo vệ môi trường. Chỉ khi chủ động phòng ngừa trên cơ sở khoa học và thực tiễn, chúng ta mới có thể giảm thiểu rủi ro, bảo đảm an toàn cho người dân và hạ tầng quốc gia.

Người dân tháo chạy thục mạng khi sạt lở đất trên tuyến đường quốc lộ 40B qua xã Nam Trà My, Đà Nẵng - Ảnh: Đ.DƯƠNG
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận