
Việc hình thành IFC tại TP.HCM không chỉ nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư toàn cầu mà còn tạo động lực cho phát triển bền vững của nền kinh tế nói chung và TP.HCM nói riêng - Ảnh: VĂN TRUNG
Những mục tiêu này không chỉ là quyết tâm chính trị, mà còn thể hiện kỳ vọng của cộng đồng doanh nghiệp vào một môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, minh bạch, ổn định, an toàn và chi phí thấp.
Cơ hội và áp lực cải cách
Sau khi trở thành "siêu" đô thị, với Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu, TP.HCM mới trở thành trung tâm công nghiệp, dịch vụ, tài chính và cảng biển lớn nhất cả nước, nơi quy tụ dòng vốn, con người, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
TP.HCM mới đóng góp khoảng 23,6% GDP, cao nhất so với các tỉnh thành khác. Số lượng doanh nghiệp khoảng 328.000, chiếm 35% tổng số doanh nghiệp toàn quốc. Cả số lượng doanh nghiệp và mật độ doanh nghiệp của TP đều dẫn đầu cả nước.
Tuy nhiên, một thập niên gần đây (từ 2016 đến nay), tăng trưởng GRDP cũng như tỉ lệ đầu tư trong GRDP của TP.HCM (mới) luôn thấp hơn so với tăng trưởng bình quân cả nước. Trong khi đó, giai đoạn 2026 - 2030, TP dự kiến đặt mục tiêu tăng trưởng tương đương trung bình
cả nước.
Do vậy, thành phố cần tăng tốc và cải cách vượt trội hơn về môi trường kinh doanh để tạo bứt phá trong phát triển doanh nghiệp, thúc đẩy đầu tư, qua đó đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng.
Trước khi hợp nhất, xét theo cơ cấu ngành, TP.HCM (cũ) có dịch vụ chiếm ưu thế; Bình Dương có công nghiệp chế biến, chế tạo; và Bà Rịa - Vũng Tàu có khai khoáng. Cấu trúc này thể hiện mức độ bổ sung cho nhau, tối ưu hóa lợi thế của các địa phương, tạo cơ hội phát huy sức mạnh tổng hợp của thành phố.
Sau hợp nhất, dịch vụ chiếm tỉ trọng cao nhất (50,1%), trong đó có dịch vụ logistics, tài chính ngân hàng; tiếp đến là công nghiệp (34,2%). Tuy nhiên, các ngành được coi là động lực mới cho tăng trưởng như giáo dục và đào tạo, y tế và đặc biệt là khoa học công nghệ chưa được đầu tư tương xứng, đóng góp của những ngành này vào GRDP của thành phố còn thấp.
Đây cũng có thể được xem là nguyên nhân khiến tăng trưởng của thành phố những năm qua chưa tạo được bứt phá và còn thấp hơn bình quân cả nước.
Đảng và Nhà nước ta đã xác định thành lập Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) là giải pháp đột phá nhằm khai thác, huy động nguồn lực toàn cầu cho phát triển. Việt Nam định hướng xây dựng hai trung tâm tài chính tại TP.HCM và Đà Nẵng.
Việc hình thành IFC tại TP.HCM sẽ không chỉ nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư toàn cầu mà còn tạo động lực cho phát triển bền vững của nền kinh tế nói chung và TP.HCM nói riêng. Do đó thể chế, chính sách cho vận hành các IFC cần thể hiện được tính vượt trội, có xu hướng mở, bảo đảm các nguyên tắc công khai, minh bạch...
Cải thiện môi trường kinh doanh, tạo sức bật cho tăng trưởng
Sức mạnh kinh tế của TP.HCM là kết quả tổng hợp và cộng hưởng từ ba địa phương năng động; mở ra cơ hội thu hút đầu tư, kết nối hạ tầng, kết nối sản xuất, tiếp cận nguồn vốn, công nghệ và phát triển phù hợp với xu thế chuyển đổi xanh.
Để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số, thành phố cần chú trọng tăng tốc, bứt phá về chất lượng môi trường kinh doanh theo hướng tạo thuận lợi, an toàn, ổn định, chi phí thấp cho doanh nghiệp, đồng thời khuyến khích các ý tưởng sáng tạo.
Trong đó, chú trọng hướng tới thu hút đầu tư vào ngành dịch vụ và công nghiệp gắn với ứng dụng khoa học công nghệ và hướng tới sản xuất, kinh doanh bền vững với các nhóm giải pháp cần ưu tiên.
Trước hết, cải cách gắn với tư duy "lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm", cơ quan nhà nước luôn cam kết đồng hành cùng người dân và doanh nghiệp. Tinh thần cải cách phải được triển khai đồng bộ giữa các cơ quan, đơn vị; từ thiết kế chính sách đến thực thi.
Các văn bản do thành phố ban hành cần bảo đảm tính thống nhất, ổn định, rõ ràng, minh bạch, dễ hiểu, hiểu nhất quán và dễ thực thi. Quá trình tham vấn chính sách cần thực hiện công khai, thực chất, đa chiều và gắn với trách nhiệm giải trình. Đây là cách tiếp cận quan trọng để xây dựng niềm tin của người dân, doanh nghiệp.
Cần ban hành cơ chế phối hợp cụ thể, minh bạch, rõ ràng; bảo đảm rút ngắn thời gian, quy trình, thủ tục giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp; phản ứng nhanh, giải quyết kịp thời các vướng mắc phát sinh trong hoạt động đầu tư, kinh doanh.
Đặc biệt, cần phát triển các cơ chế tài chính ngoài ngân sách cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo theo nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị để khuyến khích doanh nghiệp nghiên cứu, ứng dụng, phát triển và chuyển giao công nghệ. Đồng thời, phát huy và khai thác tối ưu các chính sách đặc thù, vượt trội dành cho TP để nâng cấp trình độ phát triển.
Tạo môi trường thuận lợi cho việc mở rộng và đa dạng các hoạt động kinh tế đêm, góp phần thúc đẩy phát triển các ngành dịch vụ. TP.HCM có sức mạnh và vị thế kinh tế quan trọng trong cả nước, nên việc cải cách môi trường kinh doanh cũng cần thể hiện tính vượt trội, tạo bước ngoặt về chuyển đổi cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển nhanh
và bền vững.
TP.HCM cần cơ chế đối thoại, tiếp nhận và giải quyết vướng mắc
Là địa phương có mức độ tập trung doanh nghiệp lớn nhất cả nước nên TP.HCM cần phải là địa phương tiên phong và tích cực trong đơn giản hóa thủ tục và thực hiện chuyển đổi số. Tuy vậy, cải cách thủ tục hành chính (TTHC) và chuyển đổi số của thành phố vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Năm 2024, chuyển đổi số của TP.HCM (mới) chỉ đứng thứ 4, sau Hà Nội, Huế và Hải Phòng, trong đó chính quyền số xếp hạng thấp hơn (thứ 11). Mặt khác, tỉ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình của thành phố còn ở mức thấp hơn nhiều so với bình quân cả nước.
Theo dữ liệu tra cứu tại Cổng thông tin điện tử chuyển đổi số quốc gia (số liệu đo lường từ ngày 1-1-2025 đến 30-4-2025), tỉ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình của Bình Dương đạt 19%, TP.HCM đạt 14,5% và Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ đạt 10,5%.
Do đó, trong thời gian tới, thành phố cần bám sát các yêu cầu cải cách được Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ đề ra; phấn đấu đặt mục tiêu cao hơn so với yêu cầu chung của cả nước; đồng thời bảo đảm triển khai nghiêm túc, thực chất và khẩn trương các giải pháp liên quan.
Trong đó, cắt giảm, đơn giản hóa TTHC và ứng dụng công nghệ trong giải quyết TTHC là cải cách trọng tâm, cốt lõi; hướng dẫn thực hiện TTHC rõ ràng, dễ hiểu; bảo đảm tiến độ giải quyết TTHC minh bạch và đúng thời hạn.
Thiết lập cơ chế đa dạng, thuận lợi và thực chất về đối thoại, tiếp nhận vướng mắc và giải đáp các vấn đề, kiến nghị từ người dân, doanh nghiệp.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận