
Hàng cứu trợ do bộ đội biên phòng đưa tới cho dân ở ngã ba Tuần, thượng nguồn sông Hương (Huế) ngày 5-11-1999 - Ảnh: NGƯ HÀ
Người dân xứ Huế vốn đã quen với nước lũ mưa nguồn từ trong máu thịt. Sống chung với lũ lụt hằng năm, họ biết thích ứng với thiên tai, từ nhà cửa, đường sá cho đến việc dự trữ gạo cơm, mắm muối phòng khi trở trời.
Nhưng mọi sự ứng phó đó đều bị nhấn chìm trong cơn lũ lịch sử tháng 11-1999 bởi cường suất, đỉnh lũ, thời gian lũ vượt hết mọi đỉnh lịch sử đã xác lập trong hàng trăm năm qua.
Nước lũ lên quá nhanh, chảy xiết
Đêm 1-11-1999, thay cho tiếng chuông nhà thờ Kim Long đổ, tiếng chuông chùa Thiên Mụ rung là tiếng gió rít và sóng cuộn, tiếng cây đổ, đất lở, đến khuya thì nước tràn phố phường, thôn xóm ven sông.
Lũ sông Hương khi đổ vào vùng trung tâm Huế thì được phân theo hệ thống sông đào nên nước dâng chậm hơn. Vì vậy dù nước có ngập một vài tuyến đường nhưng sáng 2-11 mọi người vẫn đi làm việc, buôn bán như trong mọi cơn lụt bình thường trước đó.
Nhưng chỉ vài giờ sau, khoảng 9h30, nước đã dâng ngập tất cả các tuyến đường trung tâm TP Huế, tràn vào các công sở vốn được xây khá cao, trong đó có đài phát thanh - truyền hình. Nước lũ dâng lên quá nhanh, lại chảy xiết.
Các trạm điện bị ngập nước, nước lũ xô cột điện gãy đổ, đứt dây, nên đến 11h toàn tỉnh Thừa Thiên Huế phải cắt điện.
Tổng đài của Bưu điện Huế bị ngập sâu, đến 11h30 thì tổng đài E10 Huế cũng phải ngừng hoạt động. Toàn bộ mạng điện thoại cố định trong tỉnh bị tê liệt. Phát thanh, truyền hình cũng tắt sóng!
Nước ngập sâu, đèo dốc sạt lở vùi lấp nên hệ thống đường bộ, đường sắt cũng bị cắt đứt.
Không điện, không nước, không thông tin liên lạc, Huế như một vùng biệt lập chết lặng dưới màn đêm và nước lũ thì mỗi lúc một dâng lên. Ngoài đường phố chỉ có xe lội nước, ca nô của quân đội, công an, biên phòng lao đi cứu dân trong lũ.
Khoang thông thuyền của cầu Trường Tiền là 6m mà đỉnh lũ sông Hương 5,81m, tức chỉ còn chưa đến một gang tay là nước tràn khắp mặt cầu, nguy cơ sập cầu do lũ cuốn như đã từng xảy ra trong trận bão Giáp Thìn 1904.
Thế nhưng cầu Trường Tiền vẫn bất đắc dĩ trở thành "cầu cảng" cho các tàu thuyền, ca nô "cập bến", cũng là nơi xe cẩu đến thả ca nô đi cứu người ở các vùng sâu vùng xa, vùng đầm phá, ven biển đang bị cô lập trong nước lũ.

TP Huế chìm trong nước lũ. Trong ảnh là đường Hùng Vương, trung tâm TP, nước lũ chảy xiết như sông - Ảnh: NGUYỄN ĐĂNG HẠNH
Hoảng sợ, đói rét, kiệt sức
Từ mờ sáng 2-11, toàn bộ lực lượng và phương tiện của bộ đội biên phòng đóng ven sông Hương gần cồn Dã Viên đã được điều động đi cứu dân ven sông Hương.
Thượng tá Trần Trọng Bường, phó chỉ huy tác chiến, cho biết do nhiều nhà nằm sâu trong vườn cây ăn trái, chiến sĩ phải đu theo cây, leo vào cạy mái nhà mới cứu thoát được người dân.
Có nhà phải lần theo tiếng khóc ngặt của trẻ nhỏ mới lần vào được để cứu khi người mẹ rét cóng, giọng kêu cứu đã khản đặc không còn lên tiếng được nữa. Khoảng 200 người nhà ngập gần nóc đã được cứu thoát đưa vào hội trường cơ quan biên phòng tạm trú.
Ca nô và xe lội nước của quân đội, biên phòng, công an đưa hàng chục thi thể về tập kết tạm ở nhà bia trước Trường Quốc học. Các xưởng mộc ở vùng cao Nam Giao, Bến Ngự, Phủ Cam đóng tạm hàng chục quan tài đưa xuống để khâm liệm.
Tàu tuần tra biển của hải đội 2 biên phòng ở Hòa Duân sau khi cứu được hàng chục ngư dân thì bị sóng biển đánh chìm, hai chiến sĩ biên phòng hy sinh. Cùng với thiệt hại về người là tình trạng thiếu đói.
Hình ảnh cụ già ở ngã ba Tuần nhai ngấu nghiến gói mì vừa được cứu trợ phát trên sóng VTV khiến đồng bào cả nước nghẹn ngào!

Cảnh tang tóc ở Phú Tân, Thuận An (Huế). Cha và một em của ba đứa trẻ này đã chết trong lụt - Ảnh: V.THANH
Cứu người và cứu nhau
Trong cơn lũ, lực lượng ứng cứu của quân đội và công an dốc sức cứu dân. Không chỉ quân đội tại chỗ mà sau đó còn có lực lượng của Quân khu 4 và Binh chủng Công binh từ phía Bắc tiến vào, Quân khu 5 từ phía Nam chi viện.
Quân chủng Phòng không - Không quân tiếp cận những vùng bị cô lập bằng máy bay trực thăng. Bộ Tư lệnh hải quân ứng cứu phía biển...
Nhưng trước đó trong cơn lũ, người dân tại chỗ đã cứu nhau. Dân vạn đò ở làng Hải Cát (xã Hương Thọ, huyện Hương Trà) chèo đò đưa hàng chục người có nhà bị ngập lên sườn núi tránh lũ an toàn.
Ông Lê Văn Trừu, người chèo đò bến Than dưới chân đồi Vọng Cảnh, xông pha trong lũ dữ để cứu hàng trăm người dân làng Cư Chánh ven sông. Anh Lựa cùng gia đình chèo ghe cứu 400 người nơi ngã ba Tuần, làng La Khê Trẹm.
Cũng tại nơi đó, hai thầy giáo cùng bác bảo vệ Trường THCS Hương Thọ (xã Hương Thọ, huyện Hương Trà) đã ứng cứu 57 học sinh bị kẹt lại trong trường, cầm cự qua nhiều ngày đêm trong vùng nước lũ...
Lũ lụt cô lập vùng cao A Lưới
Vùng cao A Lưới mưa to từ ngày 1-11, nhiều vùng bị ngập sâu, núi lở. Trên quốc lộ 49 nối Huế và A Lưới, cầu Tà Lương bị cuốn trôi, cầu Bình Điền trơ mố cùng hàng chục điểm sạt lở ở đèo Aco, dốc Kim Quy, nước ngập sâu ngầm Hồng Hạ. Vùng cao A Lưới bị cô lập từ ngày 2-11 đến gần một tháng sau mới thông được đường.
Nhưng rất may, bằng nguồn của máy phát điện nhỏ, tivi ở thị trấn A Lưới bắt được sóng truyền hình VTV. Nhìn hình ảnh Huế ngập chìm trong lũ, các mệ, các chị buôn bán kẹt lại ở A Lưới khóc lóc thảm thiết.
Mấy ngày sau máy bay trực thăng chở hàng cứu trợ lên A Lưới, hàng chục người chen lấn xin lên máy bay về Huế. Nhưng máy bay chỉ chở được khoảng 20 người. Dưới càng máy bay, tiếng than khóc kêu la không khác gì cảnh chạy nạn thời chiến tranh...
Tưởng rằng phải mất 10 năm
Ông Nguyễn Xuân Lý, lúc đó là phó chủ tịch thường trực UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, cho rằng phải mười năm nữa mới khắc phục xong hậu quả, phục hồi nền kinh tế.
Nhưng cuộc tái thiết đã diễn ra nhanh hơn lo lắng của nhiều người lúc đó.
595 người chết!
Cơn lũ lụt lịch sử tháng 11-1999 là tổng hợp của đủ loại hình thiên tai xảy ra cùng một lúc: lũ ống, lũ quét ở miền núi, ngập lụt ở đồng bằng, triều cường, sóng lớn ở biển… với tính chất và mức độ chưa từng có.
Cơn lũ lụt này diễn ra trên nhiều tỉnh thành miền Trung, từ Quảng Bình đến Phú Yên và nặng nề nhất là Huế.
Tại đây lượng mưa của hai ngày đêm là 2.300mm, gần bằng lượng mưa của cả năm; nước lũ sông Hương vượt mọi mốc lịch sử, lên đến 5,81m, chưa từng có trong các số liệu thủy văn hơn trăm năm qua.
Cơn lũ lụt làm hơn 700.000 hộ dân bị thiệt hại, trong đó 146.746 hộ mất hết tài sản; 595 người chết, 41.846 ngôi nhà, 570 ngôi trường bị sụp, trôi; 24,121ha lúa bị ngập và hư hại; 436 cầu cống sụp, trôi; 2.308 cột điện cao thế đổ gãy.
Tổng thiệt hại hơn 3.773 tỉ đồng (thời điểm 1999).
(Nguồn: Ban Chỉ đạo phòng chống lụt bão trung ương)
----------------------
Trận lụt năm 1971 là trận lũ lụt lớn nhất trong vòng 250 năm qua ở miền Bắc. Cơ quan Quản trị hải dương và khí tượng Mỹ xếp trận "đại hồng thủy 1971" ở Việt Nam là một trong những thảm họa thiên tai lớn nhất thế kỷ 20.
>>> Kỳ tới: Miền Bắc hoang tàn vì trận “đại hồng thủy 1971”
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận