
Trường Chu Văn An ngày ấy.
Thời tôi đi học không có Ngày Nhà giáo 20-11, nhưng lúc nào chúng tôi cũng kính trọng, quý mến và biết ơn các thầy cô. Mỗi thầy cô đi qua trong đời đều để lại trong tôi những ấn tượng khó quên.
Năm 1973, tôi thi đậu vào Trường Chu Văn An (Sài Gòn). Ngay ngày đầu tiên của năm lớp 6, tôi được học môn văn với giáo sư Lưu Trung Khảo (hồi đó thầy giáo dạy trung học gọi là giáo sư). Thầy thấp bé thôi, nhưng trông rất đường bệ và tinh anh, đi dạy bao giờ cũng áo sơ mi trắng, thắt cà vạt nghiêm chỉnh.
Môn văn do thầy giảng thật sinh động và cuốn hút. Giọng thầy sang sảng nhưng ấm áp, truyền cảm. Thầy đã biến những giờ học văn trở nên hết sức hấp dẫn, thích thú. "Học văn là học làm người", thầy dạy chúng tôi biết xót xa, đồng cảm trước những phận đời vất vả, gian nan, cùng khổ:
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan
Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ, phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc, măng mai
Những giang cùng nứa, lấy ai bạn cùng…
Thầy truyền cho chúng tôi tình yêu làng quê, đất nước, dạy chúng tôi biết cảm thụ và yêu mến cái hay cái đẹp của văn hóa dân tộc qua những bài ca dao, dân ca trữ tình, mượt mà, sâu lắng:
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen
Em nhặt được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu…
Nhằm giúp chúng tôi mở rộng kiến thức và cảm nhận văn học tốt hơn, thầy yêu cầu mỗi đứa góp một vài quyển truyện vào quỹ sách của lớp, rồi trao đổi với nhau để ai cũng có thể tiếp xúc được với nhiều tác phẩm văn học.
Thầy có bài chữa ngọng chữ L và N cho học trò rất độc đáo, hiệu nghiệm. Đứa nào nói ngọng, thầy bắt đứng lên đọc thật to, chậm rãi, nhiều lần câu: "Ông Lý Lệ làng Quỳnh Lôi đánh rơi cái lọ, nó lăn lông lốc vào nhà lò…". Đến giờ, các thế hệ học trò của thầy vẫn nhớ và thuộc lòng câu "thần chú" ấy.
Hồi đó, ngay từ lớp 6 học sinh được học cả hai môn hội họa và âm nhạc. Dạy hội họa là họa sĩ Cao Đức Thư, cậu của Nguyễn Cao Vinh, bạn học cùng lớp với tôi. Những kiến thức cơ bản về hội họa mà thầy truyền thụ như: luật phối cảnh, đường chân trời, sắc độ, sáng tối, đường nét, hình khối… đã giúp cho tôi rất nhiều sau này khi ứng dụng vào việc chụp ảnh báo chí.
Lớp 6, lớp 7 chúng tôi học môn vạn vật (sau này gọi là sinh vật) với hai thầy rất nổi tiếng là Nguyễn Văn Long và Trần Đức Lợi. Hai thầy từ ngoại hình, phong cách, cá tính và cả kỹ năng sư phạm đều khác biệt nhau. Thầy Long gầy ốm, dong dỏng cao, nghiêm nghị, kiệm lời, hiếm khi cười. Thầy Lợi thấp bé, hoạt ngôn, lúc nào cũng vui vẻ.
Nhưng cả hai thầy đều là những người tài năng trong việc truyền đạt kiến thức, dạy cực kỳ giỏi, cuốn hút. Những lớp luyện thi tú tài và đại học hồi đó ở Sài Gòn hầu như không bao giờ thiếu vắng tên tuổi các thầy.

Bạn bè về thăm trường cũ.
Đặc biệt, có một thầy dạy văn năm lớp 7, thầy còn rất trẻ, tướng tá, phong cách văn nghệ như tài tử, rất đẹp trai. Thầy dạy chỉ có mấy tháng, tôi không nhớ tên, nhưng bài tùy bút Cảm thu đẹp tuyệt vời như một bài thơ, một bức tranh phong cảnh mùa thu, thầy giảng ngày đó tôi vẫn còn nhớ đến giờ:
"Thu năm nay, tôi lại đi trên con đường vắng này nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ… Nước trong như một cặp mắt tuyệt vời. Những cây liễu xanh đứng buồn như những nàng cung nữ thời xưa, và trong vườn nhà ai thấp thoáng, hoa phù dung nở trắng như một linh hồn còn trẻ? Nắng ở đây vẫn là nắng vàng ngày xưa và linh hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước…" (Đinh Hùng).
Môn Anh văn năm lớp 9 tôi học với thầy Bùi Khương, thầy tốt nghiệp ở New Zealand về. Sau năm 1975, thầy đi dạy với chiếc áo trắng sờn vai, vá một mảnh to như cái tivi ở sau lưng, có cảm giác nếu thầy cử động mạnh sẽ rách toang ra. Chiếc quần cũng thê thảm không kém, cũ kỹ, bạc phếch, hai bên mông vá hai miếng.
Thời khốn khó, thầy vừa đi dạy, vừa đạp xích lô. Có lần tụi tôi ngồi uống cà phê lề đường Nguyễn Kim, thấy thầy đạp xích lô chạy ngang qua, cả đám chạy ra vẫy tay mời thầy vào, nhưng thầy lắc đầu chạy luôn. Mấy thằng cao giò phải "đua" theo níu xe, kéo thầy vào.
Mười mấy năm sau, tôi đi học khoa báo chí ở Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM, thấy một giảng viên tiếng Anh trông ngờ ngợ giống thầy, cũng nói giọng Huế vậy, nhưng tướng mạo phương phi, mập mạp.
Đợi hết giờ dạy, tôi lại gần rụt rè hỏi, thưa có phải thầy là thầy Bùi Khương xưa dạy ở Chu Văn An không ạ. Thầy cười, mắt hấp háy sau cặp kiếng cận dày cộm nói tui chứ ai. Tôi nói em không nhận ra thầy vì thầy phong độ, trắng trẻo hơn ngày xưa nhiều. Thầy bùi ngùi, hồi đó khổ quá, vừa dạy vừa đi đạp xích lô, sao mập nổi!
Để lại nhiều tình cảm, gắn bó nhiều với lớp tôi là thầy chủ nhiệm Nguyễn Văn Ri, dạy môn toán năm lớp 9. Thầy đối với chúng tôi rất tình cảm, như một người thân trong gia đình, lúc nào cũng che chở, bênh vực lớp, ngay cả khi bọn tôi phá phách, vi phạm kỷ luật.
Cuối năm đó phải thi chuyển cấp, thầy gọi chúng tôi đến nhà dạy thêm vào buổi tối mà không lấy tiền. Lắm hôm đói bụng, cả đám học xong xuống lục cơm nguội nhà thầy ăn… Sau khi trường giải thể, khoảng một hai năm sau tụi tôi có ghé thăm thầy một lần. Rồi từ đó đến nay, chẳng đứa nào biết tin tức gì về thầy.
Năm lớp 10, trước giờ học môn sử, có một "em" mặc áo dài trắng vào ngồi chung bàn với ba nữ sinh cũ. Cả lớp lao nhao lên là lớp có thêm một nữ sinh mới. "Em" này trông xinh xắn, tóc ngắn, cười có hai lúm đồng tiền sâu hoáy. Chuông reng bắt đầu giờ học, "em" bước lên bục giảng, hóa ra là cô chứ không phải "em"!
Cô dạy môn sử, học Văn khoa mới ra trường, tên nghe cũng là lạ, Nghiêm Vinh Mậu. Năm sau trường giải thể, cô về dạy ở một trường ngoại thành Thủ Đức cho đến khi theo chồng đi định cư nước ngoài.
Năm lớp 10 là năm học cuối cùng trước khi trường bị giải thể, thật ngẫu nhiên chúng tôi được học môn văn với thầy Nguyễn Xuân Quế, cũng là Hiệu trưởng Chu Văn An trước năm 1975.
Hồi đó, theo phong trào, tôi bắt chước viết bài leo lề đỏ cuốn vở. Thầy kiểm tra bài nói sao viết vậy, tôi chống chế, dạ em viết vậy để tiết kiệm giấy. Thầy nói: " Em viết như vậy nhìn rối mắt, làm cho khó hiểu bài và khó thuộc. Cái tiết kiệm lớn nhất của người học sinh là học cho tốt, mỗi năm lên một lớp".
Cuối năm học 1978 trường giải thể, thầy sắp xếp lớp vào hàng và bùi ngùi nói chúng tôi vào chụp chung với nhau tấm hình làm kỷ niệm. Sau ngày đó, chẳng bao giờ chúng tôi gặp lại thầy nữa…
Không thể kể hết những thầy cô đã tận tụy, hết lòng dạy dỗ chúng tôi dưới mái trường Chu Văn An ngày nào. Bài viết như một lời tri ân tất cả các thầy cô, và cũng là một nén tâm hương tưởng nhớ đến các thầy cô đã không còn nữa.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận