19/12/2025 10:51 GMT+7

Cuộc chiến trường kỳ chống ung thư - Kỳ 5: Lấy thân mình thử vi rút chống ung thư

TS vi rút học Beata Halassy đã quyết định tiêm vi rút vào cơ thể mình với hy vọng vi rút sẽ tấn công và tiêu diệt các tế bào ung thư vú. Liệu pháp vi rút tiêu hủy ung thư (OVT) là một trong những phương pháp điều trị ung thư mới hiện nay.

ung thư - Ảnh 1.

TS vi rút học Beata Halassy đã vượt qua ung thư - Ảnh: Cropix

Tự thử nghiệm là hành động can đảm nhưng cần xem đây là giai đoạn tiến tới thử nghiệm có hệ thống nếu thử nghiệm đạt hiệu quả.
ARTHUR CAPLAN

Hai vi rút "song kiếm hợp bích" diệt khối u ung thư

TS Beata Halassy là nghiên cứu viên cao cấp tại Trung tâm nghiên cứu và chuyển giao kiến thức công nghệ sinh học thuộc Đại học Zagreb (Croatia). Năm 2016 bà được chẩn đoán mắc ung thư vú bộ ba âm tính (âm tính với ba thụ thể trong tế bào ung thư vú gồm estrogen, progesteron và Her-2). 

Bà được điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ vú, sau đó hóa trị bổ trợ và phẫu thuật cắt bỏ một khối u nhỏ tái phát tại chỗ, tuy nhiên vẫn còn một khối tụ dịch nhỏ cần theo dõi thêm.

Đến năm 2020, lúc 49 tuổi bà cảm thấy đau ở vị trí từng phẫu thuật. Kết quả chẩn đoán thật tàn nhẫn. Ung thư vú tái phát ở giai đoạn 3, tức giai đoạn nghiêm trọng và nguy hiểm hơn trước. Khối tụ dịch tiến triển thành khối u đặc xâm lấn cơ ngực. 

Bác sĩ đề nghị phẫu thuật, sau đó áp dụng hóa trị mạnh hơn. Bà suy nghĩ phải trải qua chu kỳ hóa trị gian nan và nhiều tác dụng phụ khủng khiếp khiến bà nản chí. Là nhà vi rút học, bà dành nhiều năm nghiên cứu vi rút tác động tế bào, do đó bà nảy ra ý tưởng: liệu vi rút có thể giúp chống lại bệnh ung thư của bà hay không?

Nhờ các đồng nghiệp trong phòng thí nghiệm giúp sức, bà bắt đầu tự chữa trị. Họ đã kết hợp vi rút sởi (MeV) nổi tiếng có tác dụng tiêu diệt khối u với vi rút gây viêm miệng mụn nước (VSV), tác nhân gây bệnh như cúm. Khi kết hợp hai loại vi rút này chúng có thể "song kiếm hợp bích" tấn công tế bào ung thư từ hai phía, một là trực tiếp tiêu diệt khối u và hai là kích thích hệ miễn dịch của cơ thể phản ứng mạnh với khối u.

Về y học, liệu pháp OVT sử dụng vi rút sởi MeV đã được thử nghiệm lâm sàng trên nhiều bệnh nhân ung thư vú giai đoạn tiến triển. Vi rút sởi thuộc chủng Edmonston-Zagreb từng được Đại học Zagreb dùng sản xuất vắc xin sởi, bảo đảm tính an toàn trong vắc xin nhi khoa và đã được sử dụng hơn 40 năm. Sử dụng chủng Edmonston-Zagreb rất phù hợp vì ung thư vú có rất nhiều thụ thể bề mặt CD46 và nectin-4. Các vi rút chủng Edmonston đều khai thác các thụ thể này để xâm nhập tế bào.

Còn vi rút VSV là tác nhân gây bệnh ở động vật nhưng hầu như không gây bệnh cho người và trong trường hợp xấu nhất cũng chỉ gây các triệu chứng giống bệnh cúm. Vi rút VSV có thể gây ra một số độc tính thần kinh nơi loài linh trưởng nhưng chỉ khi được tiêm trực tiếp vào hệ thần kinh chứ chưa được quan sát khi tiêm vào khối u.

Trong phòng thí nghiệm, các đồng nghiệp TS Halassy đã cẩn thận nuôi cấy vi rút và tiêm cho bà mà không gặp bất kỳ tác dụng phụ nghiêm trọng nào trong quá trình điều trị. Chỉ sau hai tháng khối u giảm kích thước rõ rệt. Các xét nghiệm sau đó cho kết quả tích cực. Sau khi điều trị, khối u không còn xâm lấn và đã được phẫu thuật cắt bỏ thành công. Cuối cùng sau bốn năm, căn bệnh ung thư của bà biến mất.

Liệu pháp OVT cho rằng có thể sử dụng vi rút tiêu diệt tế bào ung thư. Cách làm là dùng vi rút biến đổi gene hoặc vi rút tự nhiên nhắm mục tiêu vào các tế bào khối u và kích thích phản ứng miễn dịch. 

Liệu pháp này đang được thử nghiệm lâm sàng cho nhiều bệnh ung thư, đặc biệt là ung thư da không hắc tố (ung thư da không bắt nguồn từ các tế bào hắc tố). Tại Mỹ, năm 2015 Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm đã phê duyệt liệu pháp T-VEC (talimogene laherparepvec) nhằm sử dụng vi rút herpes đã biến đổi gene để điều trị ung thư hắc tố.

ung thư - Ảnh 2.

TS Beata Halassy tiêm vi rút vào cơ thể mình với hy vọng vi rút sẽ tiêu diệt tế bào ung thư vú nhưng bà cũng khẳng định chưa có đủ cơ sở để chắc chắn

Chỉ nên xem OVT là liệu pháp bổ trợ

Câu chuyện TS Beate Halassy tự áp dụng liệu pháp OVT đã được công bố ngày 23-8-2024 dưới dạng nghiên cứu điển hình trên tạp chí quốc tế Vaccines của Nhà xuất bản Multidisciplinary Digital Publishing Institute (MDPI ở Thụy Sĩ). 

Bài nghiên cứu với tiêu đề "Một nghiên cứu điển hình không chính thống về liệu pháp tân bổ trợ vi rút tiêu diệt ung thư cho ung thư vú tái phát" do nhóm tác giả gồm chín nhà khoa học thực hiện, trong đó có TS Halassy.

Trước đó một số tạp chí khoa học đã từ chối đăng nghiên cứu trên do nghi ngại vấn đề đạo đức sinh học. Thật ra nhóm tác giả nghiên cứu đã nhấn mạnh tự thử nghiệm liệu pháp OVT trên chính cơ thể mình tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì vậy không khuyến khích thực hiện. 

Trang web Nauka govori (Khoa học lên tiếng) của Bosnia & Herzegovina lưu ý TS Halassy cùng các đồng nghiệp đều có kiến thức sâu về vi rút học nên biết rõ họ đang làm gì, do đó người không đủ kiến thức và công nghệ cần thiết thì không nên bắt chước.

Cần lưu ý bài nghiên cứu của TS Halassy nêu rõ không chỉ tự chữa trị, bà còn được điều trị bằng thuốc trastuzumab. Bài viết có đoạn: "Bệnh nhân đã hoàn thành một năm điều trị bổ trợ bằng thuốc trastuzumab theo khuyến cáo điều trị ung thư vú HER2 3+". 

Điều này có nghĩa bà khỏi bệnh chưa chắc hoàn toàn do liệu pháp OVT, vì vậy chỉ nên xem liệu pháp OVT là liệu pháp bổ trợ. Bà giải thích: "Điều quan trọng cần biết là đây chỉ là thử nghiệm, chủ yếu nhằm thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu liên quan đến phát triển dạng liệu pháp điều trị ung thư này. Tôi hy vọng kết quả được công bố có thể thúc đẩy nhanh quá trình phát triển loại hình điều trị này".

Trong y học, bằng chứng hàng đầu là kết quả thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mù đôi. Kế đến, các nghiên cứu thống kê tổng hợp từ nhiều nghiên cứu độc lập (kết hợp bằng chứng từ các nghiên cứu ngẫu nhiên) được xem là bằng chứng ở mức độ cao. Còn nghiên cứu như của TS Halassy chỉ liên quan đến một bệnh nhân nên được xem là có mức độ bằng chứng thấp. Bà hiểu rõ điều này và đã nhấn mạnh muốn biết hiệu quả của liệu pháp OVT cần thử nghiệm với số lượng mẫu bệnh nhân nhiều hơn.

TS Arthur Caplan - giáo sư Trường Y Grossman thuộc Đại học New York (Mỹ) - giải thích: "Có hai vấn đề với tự thử nghiệm. Thứ nhất, một nhà khoa học hay một bác sĩ thường không thể biết điều gì là an toàn và hiệu quả. Trong trường hợp cụ thể này, rủi ro thường cao hơn và những điều chưa biết rất lớn. 

Thứ hai, thử nghiệm trên chỉ một người cung cấp rất ít thông tin để khái quát hóa cho nhiều người khác. Nếu kết quả dương tính, bước tiếp theo không phải là thử nghiệm trên người khác mà là đưa thuốc vào thử nghiệm lâm sàng để biết xem những người bệnh nặng hơn, nhiều tuổi hơn hay bệnh nghiêm trọng có đáp ứng hay không và xác định liều lượng tối ưu.

Liệu pháp vi rút tiêu hủy ung thư (OVT) có thể được thử nghiệm riêng lẻ nhưng thường được kết hợp với các chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch. Ví dụ trong thử nghiệm lâm sàng gần đây, vi rút tiêu hủy khối u có tên là vusolimogene oderparepvec (RP1) được sử dụng kết hợp với thuốc miễn dịch đã được phê duyệt cemiplimab (Libtayo®) để điều trị bệnh nhân mắc ung thư da tế bào vảy thuộc giai đoạn di căn hoặc tiến triển.

---------------------------

Nhược điểm lớn của các phương pháp điều trị ung thư thông thường là tình trạng kháng thuốc, nhiều tác dụng phụ, chi phí điều trị cao. Để khắc phục, y học cổ truyền có thể giữ vai trò bổ trợ.

Kỳ tới: Hỗ trợ điều trị ung thư bằng y học cổ truyền

Cuộc chiến trường kỳ chống ung thư - Kỳ 5: Lấy thân mình thử vi rút chống ung thư - Ảnh 3.Cuộc chiến trường kỳ chống ung thư - Kỳ 4: Phép màu cho người ung thư giai đoạn cuối

Như phép màu, đây là những người được chẩn đoán ung thư giai đoạn cuối nhưng đã sống sót sau khi thử nghiệm các loại thuốc mới.

Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên

    Tuổi Trẻ Online Newsletters

    Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

    Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất