
Tổng Bí thư Tô Lâm và Chủ tịch nước Lương Cường dự nghe phiên thảo luận - Ảnh: GIA HÂN
Sáng 5-12, Quốc hội thảo luận ở hội trường về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035.
Phân bổ vốn với hiệu quả, bảo đảm đầu tư đúng vùng lõi nghèo, đúng trọng tâm
Chương trình này được thực hiện trong 10 năm (từ 2026-2035), chia thành 2 giai đoạn (2026-2030 và 2031-2035). Trong giai đoạn 1, dự kiến tổng nguồn lực huy động thực hiện chương trình tối thiểu là 1,23 triệu tỉ đồng.
Trước mắt, vốn ngân sách trung ương hỗ trợ trực tiếp khoảng 100.000 tỉ, chiếm 8% tổng nguồn lực huy động cho chương trình.
Phát biểu ý kiến, đại biểu Quốc hội Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị) đề cập nhiều ý kiến rất lo ngại khi nhu cầu vốn ngân sách trung ương tối thiểu giai đoạn 2026 - 2030 trên 240.000 tỉ đồng nhưng hiện mới cân đối được 100.000 tỉ, đạt khoảng 41,5% nhu cầu tối thiểu.
Yêu cầu huy động 33% vốn ngân sách địa phương và 28% từ doanh nghiệp, cộng đồng, theo ông Đồng là không khả thi với các tỉnh nghèo, nơi ngân sách thường xuyên còn phải trông chờ vào Trung ương.
Đại biểu đề nghị xác định lại tỉ lệ đối ứng phù hợp, đặc biệt với các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa - nơi thậm chí 10% vốn đối ứng cũng là thách thức.
"Cần quy định nguyên tắc phân bổ rõ ràng là ít nhất 70% vốn ngân sách trung ương phải ưu tiên cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó tối thiểu 40% cho địa bàn đặc biệt khó khăn, bảo đảm đầu tư đúng vùng lõi nghèo, đúng trọng tâm", ông Đồng góp ý.

Đại biểu Hà Sỹ Đồng - Ảnh: GIA HÂN
Về giám sát và công khai, đại biểu Hà Sỹ Đồng nhắc lại nhận định trong báo cáo thẩm tra về nguy cơ thất thoát, đầu tư dàn trải nếu thiếu cơ chế giám sát cộng đồng với các dự án nhỏ, phân tán.
Để tránh thất thoát đầu tư dàn trải, ông Đồng đề nghị đưa vào nghị quyết yêu cầu công khai toàn bộ danh mục, vốn, tiến độ và kết quả dự án trên nền tảng số; giao Mặt trận Tổ quốc và cộng đồng dân cư giám sát bằng công cụ số theo thời gian thực để bảo đảm chương trình đạt hiệu quả cao nhất và phòng ngừa tiêu cực.
Ông cũng nhấn mạnh yêu cầu bảo đảm tính khả thi, gắn trách nhiệm giải trình và đề nghị Quốc hội quy định việc Chính phủ báo cáo chuyên đề giữa kỳ vào năm 2029 về tiến độ, giải ngân, hiệu quả; đồng thời áp dụng bộ chỉ số KPI độc lập để đánh giá, làm căn cứ phân bổ vốn giai đoạn 2031-2035.
"Đây là yêu cầu quan trọng, bảo đảm chương trình không rơi vào tình trạng "đầu kỳ đặt mục tiêu cao, cuối kỳ xin điều chỉnh", ông Đồng nêu.
Cần cơ chế linh hoạt để địa phương chủ động xử lý phần vốn không còn khả năng thực hiện

Đại biểu Vương Thị Hương - Ảnh: GIA HÂN
Đại biểu Vương Thị Hương (Tuyên Quang) nhất trí với đề nghị của Chính phủ trình Quốc hội cho phép kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân nguồn vốn ngân sách nhà nước của các chương trình mục tiêu quốc gia năm 2025 đến hết ngày 31-12-2026.
Theo đại biểu, đây là giải pháp cần thiết tạo điều kiện cho các địa phương tiếp tục hoàn thành những nhiệm vụ còn dở dang của giai đoạn 2021-2025, đồng thời giảm áp lực giải ngân trong bối cảnh nhiều nội dung bị chậm do các yếu tố khách quan.
Tuy nhiên, bà Hương nêu kinh nghiệm thực tiễn giai đoạn 1 cho thấy việc chỉ kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân nguồn vốn là chưa đủ để tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế. Do đó Quốc hội khóa XV đã ban hành Nghị quyết 111 năm 2024 về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.
Theo đó, quy định việc điều chỉnh dự toán ngân sách của năm 2024 và nguồn vốn kéo dài từ những năm trước chuyển sang nhằm tạo sự chủ động, linh hoạt, khắc phục tình trạng giải ngân thấp, đặc biệt là vốn sự nghiệp. Chính sách đặc thù này không còn hiệu lực thi hành đối với các khoản kinh phí từ các năm trước chuyển sang năm 2025 hoặc các năm tiếp theo.
Nữ đại biểu cho hay hiện nay, nhiều chính sách đã hoàn thành mục tiêu, không còn đối tượng thực hiện nhưng vẫn còn nguồn vốn. Một số chính sách đã được bố trí vốn nhưng không thể triển khai vì không đáp ứng tiêu chí, điều kiện (như hỗ trợ vùng trồng dược liệu quý).
Mặt khác, có những nhiệm vụ đến nay chưa thực hiện do chưa có hướng dẫn cụ thể, điển hình như nội dung chuyển đổi số trong tổ chức thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
"Với những khoản vốn thuộc các chính sách này, dù kéo dài sang năm 2026 khả năng giải ngân vẫn rất thấp, thậm chí là khó giải ngân, dẫn đến lãng phí nguồn lực. Vì vậy cần có một cơ chế linh hoạt hơn để các địa phương chủ động xử lý phần vốn không còn khả năng thực hiện theo thiết kế ban đầu", bà Hương nêu ý kiến.
Bên cạnh đó, bà Hương đề nghị bổ sung quy định cho phép HĐND cấp tỉnh quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước của các chương trình mục tiêu quốc gia đối với nguồn vốn được phép kéo dài của năm 2025 (bao gồm cả phần vốn của những năm trước chuyển sang), kèm theo các quy định về nguyên tắc điều chỉnh như quy định tại Nghị quyết 111 của Quốc hội.
"Cơ chế này sẽ giúp giải phóng phần vốn đóng cứng ở những chính sách, dự án không còn đối tượng hoặc không thể triển khai. Mặt khác, tăng tính chủ động cho địa phương trong phân bổ, điều chỉnh nguồn lực sang các dự án, các nhiệm vụ có nhu cầu và khả năng giải ngân", bà Hương nêu.
Đại biểu Quốc hội Đỗ Văn Yên (TP.HCM) đồng ý nguyên tắc phân bổ vốn ngân sách trung ương ưu tiên vùng đặc biệt khó khăn và vùng dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên, ông Yên đề nghị bổ sung tiêu chí phân bổ theo mức độ hoàn thành mục tiêu và hiệu quả giải ngân giai đoạn trước.
"Việc gắn phân bổ vốn với hiệu quả thực thi sẽ tạo động lực mạnh mẽ với các địa phương trong công tác điều hành, đồng thời giảm tình trạng vốn chậm giải ngân hoặc đầu tư dàn trải, từ đó thúc đẩy tiến độ và nâng cao hiệu quả chương trình", ông Yên nhận định.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận