Việc cung cấp than và khí cho sản xuất điện gặp khó khăn - Ảnh: N.AN
Thông tin được đưa ra tại Hội thảo "Phát triển năng lượng bền vững và bảo vệ môi trường tại Việt Nam" do Hiệp hội Năng lượng tổ chức sáng 29-11.
Theo qQy hoạch điện VII điều chỉnh được Chính phủ phê duyệt, dự kiến đến năm 2020 điện cần sản xuất 265-278 tỉ kWh và khoảng 571.700 tỉ kWh vào năm 2030.
Nhu cầu cao, khả năng thấp
Để đáp ứng nhu cầu thì cả nước cần tới 60.000 MW, năm 2025 cần 96.500 MW và đến năm 2030 là 129.500 MW. Như vậy tổng công suất nguồn điện cần đưa vào vận hành tư nay đến năm 2030 bình quân tăng thêm khoảng 6.000 - 7.000 MW.
Năm 2018, với tổng công suất nguồn điện cả nước mới đạt 47.750 MW, với sản lượng điện thương phẩm là 192,1 tỉ kWh. Như vậy thời gian 12 năm tới làm thế nào để đưa được công suất 129.500 MW và điện lượng 57.700 tỉ kWh là thách thức lớn.
Trong khi đó, hiện nhiều dự án trong Tổng sơ đồ điện VII điều chỉnh đang chậm tiến độ dẫn tới có khả năng từ những năm 2020 đến năm 2025 việc thiếu điện sẽ xảy ra.
Đại diện của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) cho biết theo tính toán, nhu cầu than cho sản xuất điện đến năm 2020 cần tới 60 triệu tấn và 2025 là 86 triệu tấn.
Tuy nhiên, việc khai thác than trong nước gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Dẫn chứng là với sản lượng đề ra cho năm 2016-2017 là 41-44 triệu tấn, nhưng thực tế chỉ đạt khoảng 38 triệu tấn.
Theo đó, lượng than nhập khẩu tăng mạnh từ 3 triệu tấn năm 2014 lên gần 20 triệu tấn năm 2018.
Nhập 20 triệu tấn than, sau 2020 nhập khẩu khí
Trong khi đó, đại diện TKV cho rằng chính sách sản xuất, tiêu thụ than hiện chưa rõ ràng, nhất quán. Cụ thể, ở khâu sản xuất thì theo kế hoạch, nhưng khâu tiêu thụ thì có lúc theo kế hoạch, nhưng có lúc theo thị trường, dẫn tới cung cầu than trong nước nhiều khi không gặp nhau.
Để đáp ứng nhu cầu, TKV cho biết nhu cầu vốn đầu tư ngành than rất lớn, theo quy hoạch giai đoạn 2016-2030 là 269.000 tỉ đồng (tương đương 12,3 tỉ USD). Như vậy bình quân mỗi năm cần 18.000 tỉ đồng nhu cầu đầu tư cho phát triển sản xuất than trong nước, chưa bao gồm đầu tư ở nước ngoài.
Còn theo ông Nguyễn Vũ Trường Sơn, Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) theo cân đối nhu cầu đất nước sau năm 2020 sẽ thiếu khoảng 10 triệu tấn LNG hóa lỏng.
Do đó, việc xây dựng cơ sở hạ tầng để nhập khẩu LNG ngoài việc khai thác khí ở các mỏ hiện nay là bài toán cần tính đến.
Trong khi đó, về khai thác dầu khí liên quan đến tương lai dài hạn, dài hơi cho PVN cũng chưa được xác định do hiện PVN vẫn chỉ khai thác những mỏ cũ, trong khi việc khai thác trữ lượng mỏ bổ sung với 25 triệu tấn vẫn "chưa có câu trả lời" nên việc bù trừ sản lượng khai thác hàng năm càng hạn hẹp.
Theo đại diện Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), hiện nguồn năng lượng sơ cấp trong nước cạn kiệt không đảm bảo sản xuất điện, nguồn than và khí tới đây cũng phải nhập khẩu, trong khi vốn đầu tư mỗi năm cần 6 tỉ USD nhưng việc thu xếp khó khăn.
Trong khi đó, các nguồn điện được khởi công xây dựng để đưa vào vận hành trong 5 năm tới rất thấp so với quy hoạch.
Cụ thể, tổng công suất các nguồn dự kiến đưa vào là 34.864 MW, nhiệt điện là 26.000 MW, nhưng thực tế hiện nay chỉ có 7 dự án nhiệt điện than với 7.860 MW được khởi công và xây dựng.
Theo ông Ngãi, để đảm bảo an ninh năng lượng đất nước cần rà soát lại các dự án điện, khí, than, nêu rõ dự án nào chậm tiến độ để khắc phục ngay, dự án nào chưa khởi động thì triển khai, dự án nào đang nằm trên giấy, từ đó cần phải giao nhiệm vụ, kế hoạch, giải pháp, thực hiện và tháo gỡ khó khăn.
Về cung ứng than cho điện, do nhu cầu than nhập khẩu ngày càng tăng nên ông Ngãi khuyến nghị Chính phủ cần giao trách nhiệm, đầu mối nhập khẩu than để cung cấp cho điện.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận