
Một thời, học sinh vùng quê xa xôi Cà Mau tới trường phải qua những cây "cầu khỉ" thế này - Ảnh HUỲNH LÂM
Đó cũng là lúc tôi được nhắc tới tuổi đến trường. Và tôi mãi không quên hình ảnh những đứa nhóc phải cởi quần áo lóp ngóp lội qua kinh, rồi kiếm bụi cây để chui vào mặc lại đồ háo hức đón ngày khai giảng ở miệt quê nghèo…
Mái trường lá bên ngã ba sông
Có đôi khi một mùi hương nào đó thoảng qua cũng đủ kéo ta về với cả một trời ký ức. Dân đồng bằng nhớ nhất là mùi rơm rạ, mùi mạ non, dân miền biển nhớ mùi cá tôm, mùi rêu lưới… Chẳng biết có nhiều người như tôi hay không, cái mùi sình non, mùi lá dừa nước, mùi vỏ tràm thối lại gợi lên hình ảnh về mái trường đầu tiên với ngày tựu trường không tiếng trống.
Ba tôi là bộ đội miền Bắc vào Nam. Khi nước nhà thống nhất, ba công tác được ít lâu tại các đơn vị quân đội của tỉnh Minh Hải (nay là Cà Mau) rồi tham gia nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia. Ba biền biệt bao năm cũng là giai đoạn tuổi thơ của tôi sống trọn vẹn ở một miền quê nghèo nhưng nề nếp, gần tỉnh lỵ Cà Mau.
Cũng như cách ông ngoại tôi sống trọn cuộc đời của một "nhà nho" hay cho chữ trên những đôi liễn treo tường. Hễ khi gần xa có chuyện hiếu hỷ, lễ lạc, xóm giềng hay tới xin ý kiến của ông trong những chuyện cần thiết.
Xóm Rạch Muỗi (nay thuộc xã Lương Thế Trân, Cà Mau) ngày ấy không có đường bộ. Nhà này qua nhà kia phải đi xuồng hoặc xăn quần lội qua những đường nước ranh (cạn). Đó là mùa nước kém. Còn đến mùa nước rong thì nước tràn sân. Đàn ông trong xóm ai cũng phải có "nghiệp vụ" lặn xuống đáy sông móc đất sình lên be bờ nhà. Người siêng thì lặn lấy đất sét hầm (nung) chín đỏ để lót lối đi.
Xóm tôi không có trường học. Trẻ nhỏ đến tuổi đi học phải bơi xuồng đến tận xóm Trần Độ xa tít. Trong xóm, ai có xuồng ba lá cho con đi học cũng đồng nghĩa hào sảng cho luôn cả con nhà hàng xóm quá giang đến khi nào lũ nhóc ngồi gần khẳm xuồng thì thôi. Những chiếc xuồng nhỏ cũ kỹ chất đầy học sinh xuôi theo con sông Rạch Muỗi mỗi sáng luôn là dịp để bọn nhỏ chúng tôi vui vẻ chuyện trò.
Thỉnh thoảng chúng tôi lại nghe chìm xuồng, học sinh ướt hết quần áo, tập vở. Ở xóm quê miệt sông nước, trẻ con chập chững biết đi cũng bắt đầu tập lội (bơi) nên xuồng chở học sinh chìm như cơm bữa nhưng chẳng có chuyện gì đáng tiếc.
Tuy vậy, chuyện cho học sinh có được điểm trường gần hơn để khỏi phải bơi xuồng xa xôi và rủi ro chìm xuồng làm nhiều con em trong xóm phải gián đoạn học hành cũng được ngoại tôi và một số người quan tâm chuyện học của bọn trẻ ý kiến với chính quyền.
Chuyện trở thành hiện thực khi người ta huy động nhà ai có con cho đi học đóng góp làm điểm trường mới, bằng cách… lặn xuống đáy sông lấy sình đắp lên khu đất công ngay đầu vàm kinh (kênh) Ngã Cại, cách nhà ngoại tôi một con sông.
Những người có nghề mộc thì đóng góp công dựng cột, lợp lá… Ông ngoại tôi đóng góp số gỗ trong vườn nhà và mớ lá dừa nước dưới mé sông để lợp mái và dừng (dựng) vách…
Mùa hè năm 1987, khu đất trước đó vốn lau sậy phủ đã được phát hoang. Nhiều trai tráng trong xóm đưa xuồng đến lặn lấy đất đắp nền. Phơi vài nắng, nền đất vừa hé nứt nẻ thì dân xóm lại xúm nhau góp công dựng trường, người xé lá dừa nước, người đo cắt cột kèo, người chịu khâu lợp mái… Chưa quá một tuần, mái lá được che kín, khu nhà ngăn vách làm hai phòng học được hoàn thành.
Đó cũng là lúc tôi được cho hay đã tới tuổi vào lớp 1. Điều khiến tôi bất ngờ hơn cả là khu đất bụi rậm giờ được dựng lên cái bảng hiệu đóng bằng những thanh ván gỗ "Điểm trường Rạch Muỗi".
Từ khi có điểm trường, không chỉ tụi nhỏ trong xóm Rạch Muỗi mà ở những xóm lân cận như Kinh Cống, Kinh Cùng, Bộng Nhồng, Giáo Mậu, Ngọn Cại… cũng háo hức. Giáo viên là một người có biết chữ trong xóm. Thời điểm đó ở miệt cuối nước có người biết chữ đứng ra dạy học là quý, lấy đâu ra đủ người có bằng cấp.

Học sinh vùng sông nước Cà Mau tới trường - Ảnh: THANH HUYỀN
Lội cùng xóm trên xóm dưới để mượn sách giáo khoa cho con học
Những năm khó khăn ấy, gần đến ngày tựu trường cũng là thời điểm nước rút để… mượn sách giáo khoa. Mẹ tôi, dì tôi, cậu mợ, xóm giềng… cứ đi đến nhà nọ nhà kia xa gần có con cháu vừa học qua lớp mà con mình sắp vào học để mượn sách giáo khoa cũ.
Thậm chí có người đã "xuống mối" từ năm học trước để xí phần bộ sách giáo khoa cho con mình. Thời buổi khó khăn, chuyện mua tập sách cho con học là một khoản tiền lớn với nhiều người.
Sách giáo khoa cho chương trình lớp 1 năm đó cũng chỉ có hai cuốn toán và học vần, tôi được để lại từ người chị học trước đó. Tuy hai môn học nhưng mẹ tôi cũng chỉ đủ tiền mua một cuốn tập học giấy vàng sậm. Phía trước tập dành để viết môn toán, phía sau chép môn học vần.
Khi vào học rồi tôi mới biết chuyện học sách giáo khoa mượn của anh chị học trước, cũng như một cuốn tập cho hai môn học không chỉ riêng tôi mà hầu hết học sinh trong xóm cũng đồng cảnh ngộ. Thậm chí nhiều bạn không có sách giáo khoa, giáo viên phải xếp ngồi gần với học sinh có sách để "học ké" - hình ảnh giúp nhau học rất đỗi thân thương thời nghèo khó mà học sinh thời nay không thể biết.
Một kỷ niệm nữa mà tôi vẫn không quên là trường nghèo, chuyện dựng lên mái lá để có chỗ dạy học cũng phải đi vận động sức dân đóng góp thì làm gì có tiền để mua trống. Ngày khai giảng trường tôi im lìm không tiếng trống. Đơn giản là phụ huynh chỉ dẫn con vào gửi gắm cho cô giáo, vốn là người quen biết, thậm chí là họ hàng trong xóm, vậy là xong.
Năm đó lễ khai giảng cũng là lễ khánh thành điểm trường mới nên có mời trưởng ấp và vài người có uy tín đến dự. Trong đầu óc một đứa trẻ con, tôi được dạy chuyện lễ nghi người lớn nói gì không được phép nghe.
Nên ngày khai trường của tôi chỉ nhớ xồng xộc mùi là mùi. Mùi đất bùn mới quyện với mùi lá dừa nước, mùi gỗ ủng nước, vỏ cây thối… Những mùi không dễ chịu với người phố thị nhưng lại quen thuộc với chúng tôi và khi đã quen rồi thì không sao quên được.
Năm học mới nhưng trường nghèo làm gì có đồng phục, cũng không có quần áo mới. Nhiều học sinh còn mặc quần xà lỏn đến trường. Thậm chí nhiều học sinh cởi quần áo lội qua sông, chui vào lùm sậy mặc lại rồi vào học.
Sau khi có điểm trường Rạch Muỗi đã bớt đi chuyện học sinh chìm xuồng ướt quần áo, tập vở. Cũng không còn chuyện tụi nhỏ mượn cớ theo người lớn lặn tìm vỏ đạn, vỏ bom sót lại từ thời chiến tranh để bán ve chai rồi dần bỏ học.
Sau này đám học trò quê nghèo đó tứ tán khắp nơi. Mỗi người một vị trí, một phận sự cho cuộc sống. Có thể họ giàu hoặc nghèo, có thể đi đến nhiều nơi, ngửi được nhiều mùi hoa thơm, quả ngọt nhưng có lẽ nhiều người sẽ không quên cái mùi đặc biệt thuở thơ ấu đến trường.
Đó là hình ảnh của cha tảo tần lặn ngụp đáy sông móc lên từng thớ đất đắp nền làm trường, là những người ông người bà cặm cụi góp từng cây tre, cây tràm, lá dừa nước… để có cái gọi là trường lớp tạm đủ che nắng mưa cho con cháu mình được đi học.
Họ khát khao xóm nghèo sẽ dần đổi thay, sáng sủa hơn từ chính những đứa trẻ được cắp sách đến trường...
Sau này đi công tác về những xóm dân mới, tôi gặp lại mùi đất mới quyện với mùi lá dừa nước và mùi gỗ ủng nước. Đó là mùi miệt quê hương sông nước, mùi của tạo dựng cuộc sống mới trên sự cần cù của bà con đẫm mồ hôi kiếm sống bằng chân tay. Và với tôi, những mùi xóm quê này cũng đặc biệt không thua gì mùi pháo tết một thời.
******************
Hành trình trở về miền ký ức có những nơi chốn chỉ cần đặt chân tới là bao kỷ niệm tuổi thơ lại ùa về. Và với tôi, đó là ngôi trường nhỏ thân yêu miền đất đỏ.
>> Kỳ tới: Ngày khai giảng, chị em tôi đẫm bùn đất đỏ
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận