
Cảnh xếp hàng mua hàng hóa thời bao cấp sau 1975 - Ảnh tư liệu
Ngày khai giảng năm đó, cậu bé tiểu học trường làng là tôi chỉ mơ ước có được những cuốn vở mới. Áo quần rách, đôi dép nhựa đã cũ lại còn sứt quai, cũng chẳng ảnh hưởng gì việc học nhưng vở thì phải chép được bài. Những cuốn vở mới trắng tinh, thơm tho. Chỉ vậy thôi mà là ước mơ của bao đứa học trò thời khốn khó.
Cơm ăn không đủ thì sách vở, bút thước và cuốn vở trắng tinh trở nên thứ "xa xỉ phẩm" trong ngày tựu trường.
Xếp hàng mua... vở
Tôi vào lớp 1 đúng năm học đầu hòa bình 1975-1976. Trường làng tôi, tiểu học cộng đồng Nam Phổ Hạ trở thành Trường cấp I-II Lộc An A, huyện Phú Lộc, tỉnh Bình Trị Thiên (nằm cách TP Huế 30km về phía nam).
Ngày khai giảng lớp 1 chế độ mới, tôi vẫn có đủ tập vở là phần thưởng của anh chị tôi từ nhiều năm trước. Đó là những cuốn vở trắng tinh, thơm phức mà anh chị tôi quen gọi là vở xích lô, vì ngoài bìa có in hình chiếc xích lô. Xích lô máy thì 100 trang, xích lô đạp 96 trang.
Sau xích lô là vở con nai Cogido, tức viết tắt của Công ty giấy Đồng Nai, có hình con nai cách điệu rất ấn tượng. Đúng ra vở xích lô, con nai là dành cho học sinh trung học, còn tiểu học thì phải học loại vở 48 trang, bìa con thiên nga hoặc hình nữ sinh, cô giáo rất đẹp, kẻ năm ô ly dành cho học trò tập viết. Nhưng chỉ qua hết năm học lớp 2 thì các loại vở xích lô, con nai, thiên nga, nữ sinh cũng hết. Lúc này mới thấy cuốn vở quý giá thế nào.
Đầu năm học lớp 3, mẹ tôi ra cửa hàng của Hợp tác xã mua bán xã Lộc An để xếp hàng mua vở cho bầy con khai giảng. Xếp hàng nửa buổi thì mua được năm cuốn vở, vì đầu năm học nhà nào cũng mua vở, lấy đâu hàng hóa mà phân phối cho đủ. Vậy là chị tôi phải ra chợ Truồi để tìm mua thêm vở cho mấy đứa em.
Ngặt nỗi hàng hóa đều do Nhà nước quản lý, nhất là những thứ công nghệ phẩm, nên "tư thương" bán hàng ở chợ cũng phải "ngó trước ngó sau" mới dám đưa hàng ra bán. Khó vậy mà chị tôi vẫn mua được một số vở xích lô "tồn kho" còn sót lại. Chị còn mua thêm được vài cuốn vở mới, bìa chỉ một màu xanh hoặc hồng, không có hình ảnh gì cả. Đơn sơ vậy thôi mà xem như một việc quan trọng của cả gia đình.
Tập giấy đầy bã mía, bã rơm
Qua đến năm học 1979-1980, chiến tranh biên giới phía bắc vừa nổ ra, mùa màng lại liên tục thất bát, khó khăn của đời sống cũng lên đỉnh điểm. Đầu tiên là cái khó của cơm áo rồi đến lượt sách vở bút viết cũng khó theo. Tôi không thể quên ngày khai giảng năm học đó, có đứa bạn tôi đến trường tay không.
Cô giáo hỏi "vở em mô?", cậu bé nói "mạ em chưa mua được". Vậy là cô giáo vận động cả lớp đóng góp: "mỗi em giật ra vài tờ đôi từ cuốn vở mới của mình". Cô tập hợp lại rồi đóng thành cuốn vở cho bạn.
Có đứa chỉ có một quyển vở, chép hết các môn vào một cuốn. Có đứa khá hơn, dùng một cuốn chép hai môn ở hai đầu cuốn vở; lật phía này là vở tập viết, lật ngược phía sau là vở toán. Vậy mà vẫn học hành hăng say, không một chút buồn tủi.
Nhưng chỉ vài tháng sau thì tập vở trở nên khan hiếm quá chừng, nên giấy vở trở nên xấu đi rất tệ. Những cuốn vở làm bằng kỹ thuật thô sơ nên mặt giấy vẫn còn sót những mảnh bã mía, bã rơm. Có đứa viết bài xong thì miếng bã rơi ra, kéo theo cả chữ bay đâu mất.
Bắt đầu xuất hiện những tập giấy gọi là "giấy kẻ ngang", khổ to hơn tờ A4 một chút, kẻ ô ngang không có ô ly, chủ yếu dành cho học sinh cấp II, III. Các anh chị lấy tập giấy kẻ ngang kiếm thêm tấm giấy cứng làm bìa, dùng kim chỉ khâu thành cuốn vở.

Những cuốn vở của học trò thập niên 1960-1970 - Ảnh tư liệu
Những "sáng kiến" thời khan hiếm vở
Trong tình trạng giấy và vở trở thành thứ "xa xỉ phẩm", bọn học trò chúng tôi liền nảy ra nhiều "sáng kiến" để vượt khó. Đầu tiên là sáng kiến tiết kiệm từng centimet giấy trắng, bằng cách thu hẹp lề trang giấy để nới diện tích viết chữ ra thêm vài hàng chữ.
Tức là viết tràn ra lề, ban đầu tràn ra một chữ, rồi lấn thêm chữ nữa, thêm chữ nữa và lề trang giấy chỉ còn 1cm. Thầy giáo Hòa dạy lớp 5 chúng tôi kiểm tra vở, thấy vậy liền la: "Các em có biết câu giấy rách phải giữ lấy lề không?". Nhìn trang vở như vậy luộm thuộm lắm, khó chịu lắm. Nhưng cũng ngay tức khắc thầy hiểu ra nỗi nghèo khó của học trò nên cứ xuýt xoa mãi: "Làm răng cho các em có đủ vở mà viết cho ngay hàng thẳng lối chừ đây?!".
Một hôm cậu lớp trưởng tên Trần Quốc Ngọc trong khi nghịch ngợm trang giấy thì phát hiện một "bí mật". Hóa ra một trang giấy có thể tách ra làm đôi, bằng cách dùng nước miếng thấm ướt góc trang giấy rồi thật tỉ mỉ tách trang giấy ra thành hai tờ mỏng.
Cuốn vở 48 trang mà cậu Ngọc này tạo nó thành 96 trang mới tài tình làm sao. Vậy là cả bọn làm theo, có đứa làm được chục trang, có đứa làm được vài trang, có đứa không thể làm được, có đứa làm hỏng cả mấy trang vở ngồi khóc tấm tức. Tách được hai trang vở rồi thì mới thấy trang giấy mỏng quá, viết bút chì thì được nhưng viết bút mực thì lem qua trang sau. Vậy là phải tìm cách khác.
Rủ nhau đi "mót vở"
Các bạn học trò bây giờ mà nghe từ "mót vở" sẽ ngẩn tò te không hiểu việc gì. Thế này các bạn nhé, thời làm ăn tập thể, ruộng đồng đều của hợp tác xã. Ngày mùa, cô bác xã viên hợp tác xã ra đồng gặt lúa.
Sau khi hợp tác xã thu gom xong lúa thì bọn trẻ chúng tôi được phép ào xuống ruộng lượm những cọng lúa rơi vãi còn sót lại. Sau một ngày mót cũng gom được vài ký lúa. Việc đó gọi là mót lúa. Và "mót vở" cũng tương tự như vậy, chỉ khác là mót những cuốn vở do các anh chị lớp trên bỏ quên trong hộc bàn.
Trường làng tôi cũng là trường huyện, có một đoạn cả ba cấp đều học chung, buổi sáng cấp III (cấp THPT bây giờ), buổi chiều cấp I, II (tiểu học và THCS bây giờ). Khi trống trường đánh một hồi dài hết tiết năm kết thúc buổi học sáng của các anh chị cấp III Phú Lộc A. Lúc này bụng dạ anh chị nào cũng đói, vậy là lùa nhanh sách vở để về nhà.
Đợi các anh chị rời khỏi trường, bọn học trò cấp II chúng tôi liền đi kiểm tra từng hộc bàn để tìm giấy, vở, bút, thước còn sót lại. Bọn học trò chúng tôi gọi là "mót vở". Có khi mót được cuốn vở mới viết vài trang, có khi nhặt được cả xấp giấy trắng. Xin lỗi vô cùng các anh chị học cấp III thuở đó, cũng chỉ vì chúng em quý cuốn vở và khát khao học hành mà thôi.
Cách khác đó là của các anh chị học cấp III, họ dùng thứ nước gì đó xoa lên cuốn vở cũ đã viết để xóa hết mực. Sau khi phơi cho ráo nơi râm mát thì đem cuốn vở đó ra dùng lại. Mực cũ vẫn còn mờ mờ nên phải viết bằng bút bi đè lên cũng tạm qua được tháng ngày khốn khó.
-------------------
Cứ mỗi năm vào cuối tháng 8, nghe con cháu rộn ràng với chuyện khai giảng, chuyện vào năm học mới tôi thấy lòng mình cũng nôn nao rồi bồi hồi nhớ lại... Cho dù bây giờ tóc đã bạc nhưng thời đi học vẫn luôn là nỗi nhớ thương không thể nào quên.
Kỳ tới: Ngày tựu trường nơi miền nắng lửa Quảng Trị
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận