
Học sinh Trường phổ thông liên cấp Olympia (Hà Nội) tìm hiểu công việc của các biên tập viên tại Đài truyền hình Việt Nam - Ảnh: nhà trường cung cấp
Với mục tiêu 40% học sinh sau THCS chuyển sang học trường nghề, không học tiếp hệ THPT và 60% học sinh sau THPT học nghề thay vì theo đuổi giấc mơ đại học - có thể nói "phân luồng cứng" đã thất bại.
"Vận động phân luồng"
Tại Hà Nội có một thời gian dài các nhà trường bị giao nhiệm vụ "vận động phân luồng" theo cách tách những học sinh có học lực trung bình trở xuống ít có cơ hội thi đỗ lớp 10 THPT học nghề.
Cách làm này chỉ càng khiến phụ huynh, học sinh kỳ thị với học nghề. Tỉ lệ học sinh chọn học nghề chỉ đạt 10-15%, phần lớn là học sinh sau THPT. Nguyên nhân không chỉ là tâm lý sính bằng cấp mà học nghề có nghĩa sẽ phải rời hệ thống trường phổ thông, chuyển sang học những trường có chất lượng yếu kém hơn, cơ hội việc làm bị hạn chế và ít được xã hội coi trọng.
Cùng với cách phân luồng cứng, hệ thống trường nghề đáp ứng nhu cầu người học cũng như nhu cầu thị trường chưa được chú trọng. Và điều đáng nói nhất là học sinh không có sự chuẩn bị tâm thế. Trên thực tế học sinh "bị phân luồng nhưng không được hướng nghiệp".
Cả nước hiện có 264 cơ sở giáo dục đại học, cũng có hàng trăm cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Cơ hội để lựa chọn việc học tập sau phổ thông rộng mở. Nhất là việc đổi mới trong xét tuyển đại học trong khoảng năm năm trở lại đây đã giảm áp lực rất nhiều cho học sinh trong việc chọn trường, chọn ngành.
Nhưng theo một số chuyên gia của các trường đại học lo ngại thì "càng nhiều cơ hội càng dễ nhầm lẫn nếu như ở bậc phổ thông, học sinh không thực sự được giáo dục hướng nghiệp".
Một khảo sát của Bộ GD-ĐT năm 2023 cho thấy có trên 65% sinh viên năm 1 chưa hiểu được ý nghĩa của ngành học, trên 50% không biết học xong sẽ làm việc ở đâu. Đáng chú ý, con số trên 75% sinh viên trả lời ít thỏa mãn với nghề đã chọn vì vào học mới biết không hợp, trên 30% số được hỏi muốn thi lại để học ngành khác.
Nhiều em trúng tuyển ngành mình thích nhưng khi vào học mới nhận ra không đúng sở trường, không đủ năng lực học tập…
Hướng nghiệp "mềm"
Thay "phân luồng cứng" bằng hướng nghiệp "mềm", theo TS Hoàng Ngọc Vinh, cần có giải pháp tăng cường triển khai hướng nghiệp từ THCS theo cách mà một số nhà trường hiện nay đang làm là tạo cơ hội cho học sinh hiểu năng lực, sở thích, tìm hiểu về các nghề nghiệp trong xã hội, nhu cầu thị trường lao động. Từ đó mới có kế hoạch chọn môn học, chọn môn thi, chọn ngành học sau THPT phù hợp.
Cùng với đó cần xây dựng đội ngũ giáo viên và chuyên gia hướng nghiệp được đào tạo bài bản, có kiến thức chuyên sâu về các ngành nghề, xu hướng của thị trường lao động, giúp học sinh hiểu rõ tác động của việc chọn tổ hợp môn học đến lựa chọn tương lai nghề nghiệp.
Một kỳ thực tập ngắn hạn hay cách đưa học sinh vào môi trường thực tế như Trường phổ thông liên cấp Olympia (Hà Nội) đang áp dụng với học sinh THPT, theo ông Hoàng Ngọc Vinh, nên mở rộng hơn ở nhiều trường phổ thông. Muốn như thế cần có cơ chế để các trường hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các trường đại học, trường nghề.
Cô Mai Chi (Sở GD-ĐT Ninh Bình) bày tỏ mong muốn Bộ GD-ĐT xây dựng hệ thống dữ liệu ngành nghề, dự báo nhu cầu nhân lực là cơ sở để các trường, các địa phương triển khai nội dung hướng nghiệp cụ thể.
Bên cạnh đó có hướng dẫn về chuyên môn trong việc tổ chức hoạt động hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông, quy định khung đánh giá năng lực hướng nghiệp (tích hợp vào hồ sơ học tập cá nhân).
Theo cô Chi, để tổ chức các hoạt động hướng nghiệp đa dạng hơn, đưa học sinh ra ngoài học ở khu di tích, làng nghề, doanh nghiệp vẫn cần có các hướng dẫn, quy định, có cơ chế tài chính thực hiện thí điểm thì việc triển khai mới đồng bộ, thống nhất. Từ việc hiểu đúng, thay đổi quan điểm về hướng nghiệp đến việc thực hiện là một bước dài.
Thầy Trần Văn Huy (Trường THPT Phan Huy Chú, Đống Đa, Hà Nội) chia sẻ chỉ trong 1-2 năm, tính năng hướng nghiệp của trí tuệ nhân tạo (AI) đã thay đổi rất nhiều. Nhưng để trợ lý AI đáp ứng được nhu cầu sát thực nhất thì người thầy phải hướng dẫn học sinh trong việc tập hợp dữ liệu cụ thể, ở nhiều góc độ và cách đặt lệnh cho AI.
"Trước khi để học sinh hỏi AI, tôi yêu cầu các em trả lời bảng hỏi theo các phần như khám phá bản thân (sở thích, sở trường, môn học là thế mạnh, điều khiến mình tự tin hay lo lắng...). Tiếp đến là nhóm câu hỏi thể hiện hiểu biết, sự quan tâm của học sinh đến lĩnh vực nghề nghiệp nào đó.
Câu hỏi càng cụ thể thì AI sẽ cho kết quả càng gần với mong muốn. AI có thể cho học sinh nhiều lựa chọn xếp theo thứ tự ưu tiên, phân tích ưu, nhược điểm của mỗi lựa chọn.
Tiếp đến là hỗ trợ xây dựng kế hoạch học tập, mỗi lựa chọn sẽ cần tập trung vào nhóm môn học nào, kỹ năng mềm gì, chuẩn bị như thế nào cho hồ sơ (nếu du học) hoặc hồ sơ xét tuyển trong nước. AI cũng đánh giá được với năng lực, khả năng nỗ lực của học sinh sẽ có thể đạt được tầm điểm xét tuyển nào, tương ứng với ngành, trường nào trong nước", thầy Huy chia sẻ.
AI phân tích định hướng ngành nghề
Theo thầy Huy, với việc ứng dụng AI học sinh dễ dàng làm quen với việc hướng nghiệp theo từng mức độ, giai đoạn trong quá trình học tập. AI cũng có thể điều chỉnh kết quả nếu học sinh có các thay đổi suy nghĩ, mong muốn trong quá trình trải nghiệm thực tế tại trường.
Kết quả định hướng nghề nghiệp do AI phân tích và tổng hợp từ học sinh giúp nhà trường nắm được tình hình chung và tiếp tục có các hỗ trợ khác như tư vấn (định hướng nghề nghiệp, xây dựng kế hoạch học tập, ôn thi), trải nghiệm thực tế, bổ sung kỹ năng mềm…
Việc ứng dụng AI trong hướng nghiệp giải quyết là giải pháp giúp các nhà trường gỡ khó khăn về thiếu giáo viên hướng nghiệp.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận