
Hình ảnh Minh Trang và Dương Thiệu Tước trên báo chí Sài Gòn đương thời - Ảnh tư liệu
Mặc dù đã có hàng trăm ca khúc nổi tiếng làm rung động lòng người kể từ thời tiền chiến, song giai đoạn này Dương Thiệu Tước chú trọng việc lan tỏa ca khúc và truyền đạt phong cách cho những ca sĩ tài năng.
Dương Thiệu Tước cũng luôn đau đáu về những vấn đề về đời sống và sức sống của nền tân nhạc Việt Nam.
"Ơn nghĩa sinh thành"
Trong bối cảnh tân nhạc miền Nam những năm 1954-1975 phát triển mạnh mẽ với sự trỗi dậy của thế hệ nhạc sĩ trẻ, các tác giả tiền chiến gồm cả Dương Thiệu Tước gần như không còn sáng tác. Tập san Xuân Nghệ Sĩ năm 1970 do Nguyễn Hữu Thiết chủ biên từng nhận xét về tình trạng gần như "ngắc ngoải" này.
Dù giới nhạc sĩ trẻ vẫn mong mỏi sự đóng góp của các bậc đàn anh như Lê Thương, Thẩm Oánh, Nguyễn Hữu Ba, Văn Giảng hay Dương Thiệu Tước nhưng tiếc thay "suốt năm dài, các nhạc sĩ tên tuổi này ngưng hẳn không cho ra đời một tác phẩm nào để cuộc đời và tình thế xã hội nhà ghi nhớ".
Giữa sự "ngắc ngoải" ấy, ca khúc Ơn nghĩa sinh thành nổi lên như một nhạc phẩm hiếm hoi và gần như duy nhất của Dương Thiệu Tước được sáng tác đầu thập niên 1960. Bản nhạc mang âm hưởng thấm đượm truyền thống, lấy đề tài hiếu nghĩa làm trung tâm.
Ngay trên bản nhạc in, câu ca dao kinh điển đã được trích dẫn ngay dưới tên bài: "Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Toàn bộ phần lời ca là lời khuyên răn, nhắc nhở về đạo làm con, sử dụng ngôn ngữ giản dị, sâu sắc, dễ đi vào lòng người. Nhạc sĩ lặp đi lặp lại thông điệp về sự biết ơn công lao nuôi dưỡng của cha mẹ:
"Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu, em ơi hãy nhớ năm xưa, những ngày còn thơ, công ai nuôi dưỡng. Công đức sinh thành, người hỡi đừng quên, công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra".
Ca từ cũng mở rộng sang khía cạnh đạo lý làm người và sự thành đạt: "Người ơi, làm người ở trên đời, nhớ công người sinh dưỡng. Đó mới là hiền nhân. Vì đâu, anh nên người tài ba, hãy nhớ công sinh thành. Vì ai, mà có ta?".
Ơn nghĩa sinh thành có tiết tấu chậm rãi vừa phải, diễn cảm, thể hiện rõ tính chất trữ tình, trang trọng và đầy xúc cảm của một ca khúc về tình thân. Ca khúc này đóng vai trò như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng bền vững về giá trị đạo đức trong xã hội lúc bấy giờ.
Truyền đạt phong cách nghệ sĩ
Dù ít sáng tác, hoạt động nghệ thuật của Dương Thiệu Tước ở Sài Gòn vẫn rất phong phú, xoay quanh vai trò đào tạo và tổ chức biểu diễn, thu thanh các chương trình văn nghệ.
Giai đoạn đầu vào Nam với người vợ Minh Trang, ông làm Đài phát thanh Sài Gòn với công việc chủ sự phòng mỹ thuật và chương trình cho đến năm 1956. Sau đó cùng với dạy nhạc tại trường nhạc và tư gia, ông tham gia hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác, trong đó có việc soạn nhạc đệm cho các bộ phim như Đời đức Phật Thích Ca và soạn mấy vũ khúc trong phim Huyền Trân công chúa...
Trong một thời gian dài, nhạc sĩ gắn liền với vai trò phụ trách phòng thu âm. Nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Thiện nhớ lại khoảng đầu thập niên 1960 Dương Thiệu Tước phụ trách phòng thu âm nằm đối diện Đài truyền hình TP.HCM ngày nay. Ông Thiện mô tả Dương Thiệu Tước là "mẫu người khép kín, cũng ít tiếp xúc. Cụ chỉ làm công việc của cụ một cách rất khoa học và tinh tế".
Dương Thiệu Tước cũng là người đứng đầu ban nhạc Tiếng xưa chuyên thực hiện các chương trình văn nghệ cổ kim hòa điệu phát trên đài phát thanh. Đầu thập niên 1970, tại studio thâu thanh, nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển được gặp Dương Thiệu Tước và ban nhạc Tiếng xưa hằng tuần. Theo ông, ban Tiếng xưa chú trọng vào âm nhạc và giọng ca chứ ít tập trung vào phần khí nhạc và âm gõ. Riêng sự điều phối của Dương Thiệu Tước: "Cái gì nơi ông cũng vừa phải, chuẩn mực, rõ ràng!".
Theo Vũ Đức Sao Biển: "Chính ông là người đã đào tạo ra nhiều nhạc sĩ biểu diễn nổi tiếng mà một trong những môn đệ của ông rất được hâm mộ là nhạc sĩ guitare Classique Đỗ Đình Phương. Thế nhưng cái thành công nhất của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước là đã truyền lại phong cách nghệ sĩ và tài năng của ông cho cô con gái Quỳnh Giao, Vân Hà, Vân Quỳnh, Vân Khanh - những giọng ca ấy đã từng nổi tiếng một thời".
Cuộc sống sung túc, hòa hợp
Cuộc sống gia đình của Dương Thiệu Tước và danh ca Minh Trang tại Sài Gòn giai đoạn sau 1954 được xem là hạnh phúc và khá sung túc. Hai người từng sống tại căn nhà trên đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu), gần chợ Vườn Chuối.
Khoảng năm 1971-1972, họ chuyển đến một căn nhà dạng biệt thự kiểu Pháp có sân rộng, thường đậu chiếc xe hơi tại khu vực lăng Cha Cả, gần sân bay Tân Sơn Nhất. Đến khoảng năm 1973-1974, họ chuyển về một căn nhà rộng khác trong hẻm đường Nơ Trang Long ở Bà Chiểu. Những địa chỉ này đều quen thuộc với các học trò thường xuyên đến học đàn tại nhà thầy.
Danh ca Minh Trang, ngoài vai trò ca sĩ (từng dự Đại nhạc hội toàn quốc đầu tiên tại Dinh Norodom năm 1948 và được mời đi Đại nhạc hội Á châu ở Manila 1955), còn là xướng ngôn viên phần Pháp ngữ cho Đài Saigon. Bà ngừng hát khoảng đầu thập niên 1970. Bà từng chia sẻ lý do ngừng hát là vì "phải biết dừng đúng lúc, tre già măng mọc, để cho người ta còn nhớ đến mình với một cái... đẹp".
Danh ca Minh Trang từng kể: "Anh Tước và tôi rất hợp, sống với nhau gần 30 năm trời, không có sóng gió gì cả". Bà cho biết Dương Thiệu Tước là người hiền lành, nhút nhát (timide) nhưng có tâm hồn nghệ sĩ và một chút "bay bướm" riêng, điều mà bà chấp nhận. Bà dành lời khen cho âm nhạc của chồng: "Nhạc của anh rất là tình... khi nào tình thì tình không thể tưởng tượng được".
Phần mình, Dương Thiệu Tước luôn đau đáu với đời sống và sự phát triển của tân nhạc. Đáng chú ý nhất vào năm 1957, trên tạp chí Màn Ảnh Và Sân Khấu Tân Ca - Vũ - Nhạc - Kịch do Trần Văn Trạch chủ trương, Dương Thiệu Tước viết loạt bài về "Nền tân nhạc sẽ đi về đâu" trên nhiều số liền.
Đó là các bài như: Giai đoạn đầu tiên của tân nhạc 1937-1938, Ai đã tung ra bản nhạc cải cách đầutiên, Những may và rủi của lúc khởi đầu, 1937 tân nhạc Việt được đả kích và ủng hộ... Nhiều dữ kiện, vấn đề liên quan đến đời sống tân nhạc thuở đầu cho đến đương thời được Dương Thiệu Tước cung cấp, phân tích, phê bình và cảnh báo một cách kỹ lưỡng và tâm huyết.
Những tình khúc bất hủ đi vào lòng người

Tác phẩm Mơ tiên của Dương Thiệu Tước và Minh Trang do Tinh Hoa xuất bản lần thứ nhất 1953, hình bìa là ca sĩ Minh Trang - Ảnh: THÁI LỘC
"Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước ngồi đó, trước micro; cây đàn tranh để trước mặt. Bên cạnh, Vân Quỳnh ngồi trước cây piano, hai nam nhạc công chơi violon và một nhạc công chơi contre-basse. Ban Tiếng xưa gần như không chú trọng phần âm gõ và khí nhạc. Bên kia phòng thu, người nữ kỹ thuật viên ngồi sau tấm kiếng dày. Chị đưa nắm tay trái lên rồi xòe những ngón tay ra; tay mặt bật nút play của máy magnétophone. Ở bên này khung kiếng, nhạc sĩ Dương Thiệu Tước đưa những ngón tay thanh thoát vừa gảy vừa nhấn những dây đàn tranh. Tiếng piano của Vân Quỳnh thánh thót vang lên. Tiếng xưa, Đêm tàn Bến Ngự, Ngọc Lan - những ca khúc trữ tình của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước với các giọng ca Hà Thanh, Thanh Thúy, Xuân Thu, Phượng Bằng, Vân Hà, Vân Quỳnh, Quỳnh Giao, Mai Hương đã được đưa vào băng từ, đi vào lòng người như vậy!" - Vũ Đức Sao Biển kể.
**********************
"Anh Dương Thiệu Tước ơi, anh ra đi và anh cứ tin rằng cuộc đời nhỏ bé này vẫn nhớ anh với những bài hát nồng nàn của anh đã hiến tặng cuộc đời. Cái gì mình đã cho thì không bao giờ mất, và mình đã mất đi thì cũng chỉ là một sự tồn tại khác!". Những lời tiễn biệt ấy của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về bậc đàn anh trên báo Tuổi Trẻ ngày 5-8-1995.
>> Kỳ tới: Cung đàn nhỏ lệ Tầm Dương
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận