
Một điểm sạt lở nghiêm trọng trên đường DT601 (Đà Nẵng), cuốn trôi một phần mặt đường và lan can bảo vệ. Rất cần những thông tin cảnh báo rủi ro để giảm thiểu thiệt hại tương tự - Ảnh: THANH NGUYÊN
Việc xây dựng chiến lược quản trị rủi ro quốc gia sẽ giúp cụ thể hóa các định hướng, biến thách thức thành cơ hội, đảm bảo sự phát triển bền vững trong kỷ nguyên phát triển mới.
Từ thực tiễn những năm gần đây, nhất là đại dịch COVID-19, thiên tai, các tác động của biến đổi khí hậu, các ảnh hưởng của tình hình chính trị và quân sự trên thế giới..., tôi xin đề xuất xây dựng một "Chiến lược quốc gia về quản trị rủi ro". Chiến lược này cần được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, với sự tham gia của nhân dân và doanh nghiệp.
1. Xây dựng khung quản trị rủi ro toàn diện và tích hợp. Cần xây dựng bản đồ rủi ro thiên tai và hệ thống cảnh báo sớm. Đồng thời mở rộng thành khung quốc gia bao quát tất cả các loại rủi ro (kinh tế - xã hội, môi trường, an ninh, địa chính trị...).
Ví dụ, thành lập Hội đồng Quản trị rủi ro quốc gia trực thuộc Chính phủ, với thành viên từ các bộ, ngành, địa phương và chuyên gia độc lập. Đưa việc quản trị rủi ro vào các kế hoạch phát triển vùng miền (chống sạt lở ở ĐBSCL hoặc ô nhiễm ở đô thị lớn...).
2. Tăng cường năng lực dự báo và ứng phó chủ động. Chiến lược này cần ưu tiên đầu tư vào hệ thống giám sát số hóa, như xây dựng nền tảng dữ liệu quốc gia về rủi ro kinh tế (giám sát nợ công, lạm phát) và an ninh mạng.
Tôi đề xuất bổ sung chương trình đào tạo quốc gia về quản trị rủi ro cho cán bộ các cấp, kết hợp với hợp tác quốc tế để học hỏi kinh nghiệm từ các nước như Nhật Bản (quản lý thiên tai) hay Singapore (quản lý rủi ro kinh tế)...
Ngoài ra, cần cơ chế "diễn tập rủi ro" định kỳ, mô phỏng các kịch bản như suy thoái kinh tế toàn cầu hoặc tấn công mạng, để nâng cao khả năng phục hồi.
3. Huy động nguồn lực và thúc đẩy kinh tế xanh, bền vững. Để thực hiện định hướng kinh tế tuần hoàn và giảm phát thải, chiến lược nên tích hợp cơ chế tài chính rủi ro, như quỹ dự phòng quốc gia cho thiên tai và khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia qua chính sách thuế ưu đãi cho dự án xanh.
Ví dụ, phát triển thị trường tín chỉ carbon và bảo hiểm rủi ro môi trường, nhằm giảm gánh nặng ngân sách nhà nước. Đồng thời, tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong giám sát, đảm bảo "người dân biết, thảo luận, làm, kiểm tra, giám sát và hưởng lợi".
4. Củng cố an ninh phi truyền thống và hội nhập quốc tế. Cần có nhiều giải pháp hiệu quả trong bảo vệ chủ quyền trên không gian mạng và môi trường chiến lược mới; cần bổ sung chiến lược về an ninh dữ liệu, với quy định pháp lý chặt chẽ về bảo mật thông tin quốc gia.
Trong đối ngoại, tăng cường ngoại giao rủi ro (risk diplomacy) để đa dạng hóa chuỗi cung ứng, giảm phụ thuộc vào một số thị trường lớn, đồng thời tham gia các diễn đàn quốc tế về quản lý rủi ro toàn cầu (như ASEAN về biến đổi khí hậu)...
5. Đánh giá và điều chỉnh linh hoạt. Chiến lược cần có cơ chế đánh giá hằng năm, với chỉ số đo lường cụ thể (ví dụ: tỉ lệ giảm thiểu thiệt hại từ thiên tai, chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô...).
Trong dự thảo báo cáo chính trị hoặc chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2025 - 2035, bên cạnh các phụ lục về chỉ tiêu kinh tế - xã hội, nên tích hợp thêm chỉ số rủi ro quốc gia để theo dõi tiến độ.
Đi tìm đầu ra bền vững cho lúa, gạo
Dự thảo báo cáo chính trị Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội XIV nhận định, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng xanh, sinh thái, tuần hoàn, theo chuỗi giá trị, có hiệu quả.
Trong định hướng này, tôi xin được gửi tới Đại hội XIV ý tưởng về hướng đi căn cơ, bền vững lúa, gạo trong việc phát triển nông nghiệp qua hai ý tưởng: đi tìm đầu ra bền vững của lúa gạo và bình ổn giá lúa, gạo khi thị trường bất ổn.
Những khó khăn khách quan từ các nước ảnh hưởng đến việc xuất khẩu gạo là điều không thể tránh khỏi. Trong nhiều giải pháp, tôi thiết nghĩ phải làm một cuộc cách mạng cho cây lúa. Trong đó, phải cơ cấu giống cho mỗi vụ mùa. Tận dụng thế mạnh của từng vụ lúa trong quá trình canh tác sẽ mang lại kết quả tốt nhất cho đầu ra cây lúa.
Lúa vụ hè thu đối mặt nhiều bất lợi như mưa nhiều, bão lũ, sâu rầy, năng suất giảm, chất lương khó đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe của xuất khẩu. Nên cơ cấu giống lúa cho vụ này là các giống cứng cây, thấp, ít bị sâu rầy, năng suất cao. Những địa phương có địa hình canh tác cao, nhiễm phè nhẹ có thể trồng lúa thơm, chất lượng cao đủ đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
Đồng thời, chú trọng thị trường tiêu dùng ở trong nước (chế biến bún, bột, một số sản phẩm khác...). Thị trường tiềm năng này không nhỏ gần như bị bỏ ngỏ từ nhiều năm nay.
Vụ đông xuân, thời tiết thuận lợi, ít sâu rầy, ít sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, rất phù hợp với giống lúa chất lượng cao, năng suất cao. Từ đó gạo đáp ứng được những tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu thế giới.
Tuy vậy, cũng nên cân nhắc diện tích gieo trồng lúa ở ĐBSCL. Vượt quá giới hạn cho phép cho dù là lúa chất lượng cao, đáp ứng tiêu chuẩn nhập khẩu của thị trường thế giới cũng sẽ gặp khó khăn thị phần.
Một vấn đề sống còn nữa là, không thể tồn tại tư duy một năm ba vụ lúa chất lượng cao và diện tích gieo trồng năm sau cao hơn năm trước, nếu chúng ta muốn xuất khẩu với giá 1.000 USD/tấn gạo hoặc cao hơn nữa.
Việt Nam xuất khẩu gạo khoảng 30 năm nay vẫn cần có thêm những thương hiệu gạo Việt. Tuy rằng tạo thương hiệu gạo Việt là chặng đường không ngắn. Nhưng đề án "Xây dựng thương hiệu gạo quốc gia" được Chính phủ phê duyệt hồi tháng 5-2015 cần quyết tâm làm để góp phần xuất khẩu bền vững cho gạo Việt.
Mời bạn đọc gửi ý kiến góp ý về Tuổi Trẻ Online
Những ý kiến tâm huyết, tòa soạn sẽ chọn đăng trên báo giấy và trên Tuổi Trẻ Online.
Các ý kiến góp ý, mời bạn đọc gửi về địa chỉ email: gopyvankien@tuoitre.com.vn.

Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận