
Giảng đường khoa luật thuộc Đại học Oxford (Anh) - Ảnh: OXFORD
Nhiều quan điểm cho rằng cần có các quy định về điều kiện mở ngành và giám sát chặt chất lượng đào tạo nhân lực của hai lĩnh vực đặc thù ấy. Các nước phát triển ứng xử ra sao với trường hợp này?
Tổ chức kiểm soát nghiêm ngặt ngành y
Ở nhiều quốc gia phát triển, dù không đặt ra điều kiện "chỉ đại học đơn ngành mới được đào tạo" song hai ngành bác sĩ và luật sư được quản lý bằng hệ thống kiểm định theo ngành và cơ chế cấp phép hành nghề phải qua nhiều tầng.
Ở Mỹ, sinh viên thường học bốn năm đại học (không bắt buộc chuyên ngành nhưng phải hoàn thành các môn khoa học nền tảng, pre-med courses) rồi tham gia bài thi MCAT quốc gia. Họ sẽ tiếp tục học bốn năm tại trường y để lấy bằng tiến sĩ y khoa (MD).
Chỉ những chương trình được Ủy ban Liên hợp về giáo dục y khoa (LCME) - cơ quan kiểm định duy nhất được Mỹ công nhận - đánh giá đạt chuẩn, sinh viên mới đủ điều kiện tiếp tục bước vào kỳ thi cấp phép và chương trình nội trú. Trong danh sách hơn 150 trường đạt chuẩn LCME, hầu hết đều là khoa hoặc trường y trực thuộc các đại học đa ngành như Harvard, Michigan hay UCLA thay vì các trường thuần về y.
LCME cũng tuyên bố khá rõ rằng họ kiểm định các chương trình MD được cung cấp bởi "universities or medical schools", tức có thể là khoa, trường y thuộc một đại học đa ngành miễn đáp ứng chuẩn. Dĩ nhiên chuẩn ở đây vô cùng khắt khe.
LCME đặt ra hàng chục nhóm tiêu chí về đội ngũ giảng viên, bệnh viện giảng dạy, phòng lab, hệ thống mô phỏng, chương trình đào tạo và cả cách trường thu thập, phân tích dữ liệu về kết quả học tập của sinh viên. Một trường mới muốn mở chương trình MD phải qua nhiều vòng thẩm định trước khi được tuyển sinh, sau đó sẽ được đánh giá định kỳ.
Ở Anh, Hội đồng Y khoa tổng quát (GMC) "gác cửa" toàn bộ, phê duyệt chương trình đào tạo của trường đại học, thẩm định và công nhận các bệnh viện, cơ sở thực hành lâm sàng. Chỉ những chương trình được GMC chấp thuận, sinh viên tốt nghiệp mới đủ điều kiện đăng ký vào chương trình bác sĩ mới tốt nghiệp (Foundation Programme) để đào tạo thực hành kéo dài hai năm thuộc hệ thống y tế quốc gia NHS.
Sau năm đầu tiên, nếu được đánh giá đạt yêu cầu về năng lực lâm sàng và đạo đức, bác sĩ trẻ mới được GMC cấp đăng ký hành nghề đầy đủ. Từ đó mới có quyền tiếp tục đào tạo chuyên khoa sau đại học. GMC đồng thời duy trì cơ sở dữ liệu quốc gia về bác sĩ, ban hành chuẩn năng lực hành nghề, giám sát chất lượng chuyên môn.
Họ cũng có quyền đình chỉ hoặc thu hồi giấy phép nếu phát hiện sai phạm trong chuyên môn hoặc đạo đức nghề nghiệp. Hầu hết các cơ sở đào tạo y khoa của Anh, từ Oxford, Cambridge đến Manchester, là đại học tổng hợp mà trường y chỉ là một khoa trực thuộc trong đó.
Đức chọn cách "luật hóa" từ gốc. Chương trình y khoa được quy định thống nhất trong Quy chế cấp phép y khoa (Approbationsordnung), áp dụng cho tất cả các trường. Sau khoảng sáu năm ba tháng học tập, sinh viên phải vượt qua kỳ thi của nhà nước về y khoa, do cơ quan y tế của từng bang tổ chức.
Chỉ khi vượt qua kỳ thi này, họ mới được cấp "Approbation", giấy phép hành nghề và tiếp tục vào giai đoạn đào tạo chuyên khoa. Chính quyền bang nắm chặt cả chương trình lẫn kỳ thi và giấy phép, không để mỗi trường "tự bơi" với chuẩn riêng.
Theo quy chế trên, đào tạo y được tổ chức tại hơn 30 khoa y thuộc các đại học công lập như Heidelberg, Munich hay Freiburg. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng là các khoa y này phải đáp ứng chuẩn về giảng dạy, bệnh viện thực hành và năng lực nghiên cứu.

Sinh viên theo học y khoa tại Mỹ - Ảnh: NYMC
Mở đầu vào, siết đầu ra với ngành luật
Với đào tạo luật, Mỹ là ví dụ điển hình của mô hình "đầu vào mở - đầu ra siết". Để hành nghề, sinh viên phải tốt nghiệp chương trình tiến sĩ luật thực hành (JD) từ trường được Hiệp hội luật sư Mỹ (ABA) kiểm định.
Trường luật phải đáp ứng tiêu chuẩn nghiêm ngặt về đội ngũ giảng viên, thư viện pháp lý, kết quả học tập và đặc biệt là tỉ lệ thi đậu kỳ thi luật sư trong hai năm sau tốt nghiệp. Trường nào không duy trì được chuẩn đầu ra sẽ bị giám sát đặc biệt hoặc tước kiểm định.
Trường luật có thể nằm trong một đại học đa ngành lớn như Harvard Law School, Yale Law School hay Michigan Law hoặc trong một cơ sở tư thục quy mô nhỏ hơn. Nhưng tấm bằng JD từ các trường này chỉ là điều kiện cần.
Theo Hội đồng quốc gia phụ trách các kỳ thi luật sư của Mỹ (NCBE), để được xem xét cấp phép, ứng viên phải vượt qua kỳ thi luật sư và bài kiểm tra đạo đức bắt buộc MPRE. Ứng viên còn phải trải qua quy trình thẩm tra tư cách và đạo đức nghề nghiệp. Và quyền quyết định cuối cùng thuộc về tòa án tối cao của từng bang.
Tại Anh, các bằng cử nhân luật (LLB) phải được Cơ quan quản lý luật sư tư vấn Anh (SRA) và Hội đồng chuẩn nghề luật sư tranh tụng Anh (BSB) công nhận là bằng luật đủ chuẩn nghề nghiệp. Chỉ những chương trình của trường nào nằm trong danh sách này, sinh viên mới có thể sử dụng làm nền tảng để bước tiếp vào đào tạo nghề luật.
Hiện danh sách trường được công nhận rất rộng, gồm cả các đại học tổng hợp lớn như Oxford, University College London (UCL), Manchester và nhiều trường địa phương. Sau khi tốt nghiệp, việc hành nghề được quyết định bởi kỳ thi đủ chuẩn hành nghề luật sư tư vấn (SQE) đối với nhánh luật sư tư vấn và tranh tụng cấp sơ thẩm (solicitor), hoặc giai đoạn tập sự nghề kéo dài 12 tháng đối với nhánh luật tranh tụng cấp cao (barrister). Cả hai đều thuộc quyền giám sát và đánh giá của các cơ quan nghề nghiệp.
Chặt như nước Đức
Mô hình đào tạo luật tại Đức được cho là có sự kiểm soát chặt chẽ bậc nhất châu Âu. Mọi khoa luật tại các trường đại học đều được phép đào tạo cử nhân luật. Tuy nhiên, sinh viên chỉ có thể trở thành thẩm phán, công tố hoặc luật sư sau khi vượt qua hai kỳ thi cấp nhà nước (staatsexamen).
Giữa hai kỳ thi nói trên là giai đoạn tập sự tư pháp (referendariat) kéo dài gần hai năm. Trong đó ứng viên phải luân chuyển qua tòa án, viện công tố, cơ quan hành chính và văn phòng luật sư. Nhà nước nắm toàn quyền đánh giá và cấp phép hành nghề, siết chặt ở đầu ra và thi tuyển.
Siết là đúng và cần cơ chế kiểm định độc lập
PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện - nguyên phó hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế - Luật (ĐH Quốc gia TP.HCM) - cho rằng tại Việt Nam có những đại học gốc là đơn ngành. Trong quá trình phát triển, đặc biệt là dưới sức ép thương mại hóa, tự chủ tài chính đã phát triển những ngành nghề bổ sung trong đó có nghề luật, kinh tế…
Cũng có những đại học phát triển trên nền tảng đa ngành, đa lĩnh vực ngay từ đầu. Nhiều trường đã có sự đầu tư nghiêm túc về tất cả các lĩnh vực và một số đã phát triển không kém những trường đơn ngành.
"Tôi thấy hầu hết trường luật của các nước tiên tiến đều không phải là đại học đơn ngành mà là những khoa hoặc trường thuộc một đại học như Harvard, Oxford, Stanford. Xu hướng hiện nay của các đại học cũng là đa ngành và có sự giao thoa, tương tác giữa các ngành học", TS Điện nói.
Trong khi đó phó hiệu trưởng một trường đại học tư thục có đào tạo ngành y tại khu vực phía Nam cho rằng việc siết lại đào tạo bác sĩ là cần thiết nhưng không nên đánh đồng chất lượng với loại hình trường. Theo ông, những tiêu chí cần siết với các cơ sở đang đào tạo ngành y là năng lực thực hành lâm sàng, hệ thống bệnh viện giảng dạy và chuẩn kiểm định độc lập.
Cũng theo ông, Việt Nam đang thiếu một cơ chế kiểm định thật sự độc lập mà ở đó chất lượng được đo bằng chỉ số cụ thể như tỉ lệ thực hành đạt chuẩn, mức độ năng lực lâm sàng, điều kiện phòng lab mô phỏng và kết quả đào tạo sau tốt nghiệp. Ngược lại, nếu không có kiểm định độc lập, không có kỳ thi hành nghề thống nhất, không có đánh giá thực hành bắt buộc thì dù giao cho trường đơn ngành hay đa ngành, chất lượng vẫn khó đảm bảo.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận