PGS.TS.BS Đỗ Đức Minh chia sẻ các vấn đề liên quan bệnh thận mạn trong số phát sóng thứ 3 của chuỗi chương trình "Hiểu bệnh mạn - Sống viên mãn"- Đặng Trâm
Theo PGS.TS.BS Đỗ Đức Minh, hiện công tác tại Khoa Nội tiết - Bệnh viện Chợ Rẫy, đồng thời là phó giám đốc Trung tâm Y sinh học phân tử, Đại học Y Dược TP.HCM, bệnh thận mạn đang trở thành một "đại dịch thầm lặng" với tốc độ gia tăng đáng báo động.
Vì sao gọi là "đại dịch thầm lặng"?
Chia sẻ trong số phát sóng thứ 3 của chương trình "Hiểu bệnh mạn - Sống viên mãn" do Báo Tuổi Trẻ phối hợp Boehringer Ingelheim Việt Nam (công ty thuộc Tập đoàn Dược phẩm của Đức) thực hiện, PGS.TS.BS Đỗ Đức Minh cho biết hiện nay, cứ 10 người trưởng thành thì có 1 người mắc bệnh thận mạn. Trên toàn cầu, ước tính có khoảng 850 triệu người đang sống chung với căn bệnh này.
"Con số này cho thấy bệnh thận mạn không còn là vấn đề riêng lẻ mà đã thực sự trở thành một đại dịch toàn cầu", PGS Minh nhấn mạnh.
Theo PGS Đỗ Đức Minh, bệnh thận mạn được gọi là "đại dịch" bởi số người mắc quá lớn và ngày càng gia tăng. Còn "thầm lặng" là vì ở giai đoạn đầu, bệnh hầu như không có triệu chứng rõ ràng.
"Thận có cơ chế bù trừ rất tốt. Người bệnh vẫn sinh hoạt bình thường cho đến khi chức năng thận đã suy giảm đáng kể. Khi các triệu chứng lâm sàng xuất hiện thì đa phần bệnh đã tiến triển ở giai đoạn muộn", PGS Minh giải thích.
Chính sự âm thầm này khiến nhiều người không biết mình mắc bệnh, không được tầm soát sớm và chỉ phát hiện khi đã đối mặt với các biến chứng nặng nề như suy tim, biến cố tim mạch, phải lọc thận hoặc ghép thận.
Bệnh thận mạn không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe cá nhân mà còn tạo ra gánh nặng lớn về kinh tế và xã hội. Ở giai đoạn muộn, người bệnh phải chạy thận nhân tạo hoặc thay thế thận với chi phí rất cao.
"Một người chạy thận thường phải điều trị 2 - 3 lần mỗi tuần. Cuộc sống gần như gắn liền với máy chạy thận, rất khó duy trì công việc và sinh hoạt bình thường", bác sĩ Minh chia sẻ.
Không chỉ người bệnh, người thân trong gia đình cũng chịu ảnh hưởng khi phải dành thời gian chăm sóc, đưa đón, giảm thời gian lao động. Do đó, bệnh thận mạn không chỉ là gánh nặng y tế mà còn là gánh nặng xã hội lâu dài.
Trước đây, bệnh thận mạn thường gặp ở người lớn tuổi. Tuy nhiên, hiện nay căn bệnh này đang có xu hướng trẻ hóa rõ rệt. Nhiều bệnh nhân chỉ mới 20 - 30 tuổi đã được chẩn đoán mắc bệnh.
Theo bác sĩ Minh, lối sống hiện đại là một trong những nguyên nhân chính: áp lực công việc, stress kéo dài, thức khuya, ít vận động, tiêu thụ nhiều thực phẩm chế biến sẵn, ăn mặn, uống nhiều nước ngọt có gas.
Những yếu tố này góp phần làm gia tăng các bệnh mạn tính như tăng huyết áp, đái tháo đường, béo phì - vốn là những yếu tố nguy cơ hàng đầu của bệnh thận mạn.
Bên cạnh đó, người trẻ có xu hướng lạm dụng thực phẩm chức năng, hoặc tự ý dùng thuốc mà không có chỉ định y tế, gây tổn thương thận nghiêm trọng.
Một thống kê đáng lo ngại khác được PGS Đỗ Đức Minh chia sẻ rằng trong 10 người mắc bệnh thận mạn, chỉ khoảng 2 người tiến triển đến giai đoạn phải lọc thận. Phần lớn còn lại tử vong sớm do các biến chứng tim mạch.
"Bệnh thận mạn giống như phần chìm của tảng băng. Những ca phải lọc thận chỉ là phần nổi, còn rất nhiều bệnh nhân đã không thể đi đến giai đoạn đó vì biến cố tim mạch xảy ra trước", ông cho biết.
Bác sĩ Minh cho biết do hiện nay người trẻ có xu hướng lạm dụng thực phẩm chức năng hoặc tự ý dùng thuốc mà không có chỉ định y tế, gây tổn thương thận nghiêm trọng - Đặng Trâm
Điều trị và sống chung với bệnh
Theo khuyến cáo của bác sĩ Minh, người khỏe mạnh nên khám sức khỏe định kỳ ít nhất 1 - 2 năm/lần, trong đó có đánh giá chức năng thận. Với nhóm nguy cơ cao như người bị tăng huyết áp, đái tháo đường, béo phì, phụ nữ có tiền sử tiền sản giật hoặc gia đình có người mắc bệnh thận, việc tầm soát cần thực hiện ít nhất mỗi năm một lần.
Hai chỉ số quan trọng trong chẩn đoán và theo dõi bệnh thận mạn là độ lọc cầu thận ước tính (eGFR) và tỉ lệ albumin/creatinin trong nước tiểu. Dựa vào đó, bệnh được chia thành 5 giai đoạn, từ nhẹ đến nặng.
"Phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm giúp việc điều trị đơn giản hơn rất nhiều và có thể làm chậm tiến triển bệnh trong thời gian dài", bác sĩ Minh nhấn mạnh.
Về nguyên tắc, điều trị bệnh thận mạn dựa trên ba trụ cột là thay đổi lối sống, chế độ dinh dưỡng phù hợp và sử dụng thuốc theo đúng chỉ định.
Người bệnh cần hạn chế ăn mặn, giảm thực phẩm chế biến sẵn, hạn chế đồ ngọt, duy trì vận động ít nhất 30 phút mỗi ngày. Việc hạn chế đạm, kali hay phospho cần được cá thể hóa theo từng giai đoạn bệnh, tránh kiêng khem quá mức.
"Có hai thái cực đều không tốt: ăn uống hoàn toàn không kiểm soát hoặc kiêng khem cực đoan. Điều quan trọng nhất là sự cân bằng và tuân thủ hướng dẫn của bác sĩ", bác sĩ Minh lưu ý.
Với sự tiến bộ của y học, hiện nay có nhiều phương pháp điều trị giúp làm chậm tiến triển bệnh, cải thiện chất lượng sống. Ở giai đoạn cuối, các kỹ thuật lọc thận và ghép thận ngày càng hiện đại, hiệu quả hơn trước.
Theo PGS Đỗ Đức Minh, khi được trang bị đầy đủ kiến thức, người bệnh sẽ bớt hoang mang, chủ động hơn trong điều trị và giữ được tinh thần lạc quan - yếu tố rất quan trọng trong kiểm soát bệnh mạn tính.
"Bệnh thận mạn không phải là bản án chung thân nếu được phát hiện sớm và điều trị đúng cách. Người bệnh hoàn toàn có thể sống chung khỏe mạnh với bệnh trong nhiều năm", ông khẳng định.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận