
GS.TS Nguyễn Thị Thanh Mai trình bày tham luận tại hội thảo - Ảnh: HUẾ XUÂN
Đây là một trong những số liệu nổi bật được đưa ra trong hội thảo "Dấu ấn trí tuệ của nhà khoa học nữ Việt Nam và khát vọng bứt phá trong kỷ nguyên mới", do Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Đại học Quốc gia TP.HCM và báo Phụ Nữ TP.HCM phối hợp tổ chức ngày 28-8.
Nguồn lực nhà khoa học nữ rất lớn
Tại hội thảo, GS.TS Nguyễn Thị Thanh Mai - phó giám đốc Đại học Quốc gia TP.HCM - nhấn mạnh nữ trí thức Việt Nam là một nguồn lực đặc biệt trong hệ sinh thái khoa học - công nghệ.
Việt Nam hiện có tỉ lệ nữ tham gia nghiên cứu khoa học đạt khoảng 45%, thuộc nhóm cao nhất châu Á, phản ánh truyền thống trọng giáo dục và những nỗ lực không ngừng của nhiều thế hệ nữ trí thức.
Ngược lại tại một số nước châu Á phát triển, tỉ lệ này còn rất thấp, Nhật Bản chỉ khoảng 17% (2022), Hàn Quốc 20-25%, Trung Quốc chiếm gần 28% (2022).
Ngay trong ASEAN, bức tranh cũng đa dạng: Philippines và Thái Lan có hơn 50% nhà khoa học là nữ, trong khi Singapore khoảng 34% và Campuchia chỉ khoảng 20% (2023). Những khác biệt này xuất phát từ nhiều yếu tố lịch sử, văn hóa, chính sách giáo dục, lao động ở mỗi nước.
Theo GS.TS Nguyễn Thị Thanh Mai, thực tiễn cho thấy khi tham gia mô hình "Ba Nhà" - Nhà nước, Nhà trường và Nhà doanh nghiệp, nữ trí thức thường trở thành "cầu nối" hiệu quả. Họ vừa hiểu ngôn ngữ khoa học, vừa nhạy bén với thị trường, đồng thời có khả năng xây dựng niềm tin và tạo đồng thuận.
Tại Đại học Quốc gia TP.HCM, nhiều hợp tác chiến lược với doanh nghiệp lớn như VNG, Nestlé, VinUni hay CT Group đã được khởi xướng hoặc thúc đẩy mạnh mẽ nhờ vai trò kết nối của các nữ lãnh đạo và nhà khoa học.
GS Thanh Mai chỉ ra hiện tượng "trần kính" - rào cản vô hình chặn phụ nữ phát triển lên cao, và "đường ống rò rỉ" - sự thất thoát phụ nữ dần dần trên hành trình sự nghiệp khoa học. Vì vậy cần những chính sách đồng bộ, từ khung pháp lý đến môi trường làm việc, nhằm bảo đảm cơ hội bình đẳng cho phụ nữ trong nghiên cứu, giảng dạy và quản lý khoa học.
Cụ thể, bà kiến nghị bốn nhóm giải pháp. Trước tiên là hoàn thiện chính sách bình đẳng giới trong khoa học, như đặt chỉ tiêu tối thiểu về tỉ lệ nữ chủ nhiệm đề tài, lãnh đạo hội đồng khoa học.
Thứ hai là xây dựng môi trường làm việc thân thiện, hỗ trợ nhà khoa học nữ bằng chế độ nghỉ thai sản linh hoạt, dịch vụ chăm sóc trẻ, xử lý nghiêm phân biệt đối xử giới.
Thứ ba là phát triển mạng lưới cố vấn và chương trình học bổng, ghế giáo sư dành riêng cho nữ, đồng thời khuyến khích phong trào "HeForShe" trong học thuật.
Cuối cùng là học hỏi kinh nghiệm quốc tế như chương trình Athena SWAN (Anh), ADVANCE (Mỹ) hay mô hình Bắc Âu để cải thiện tỉ lệ nữ trong STEM.
Gỡ rào cản cho nhà khoa học nữ

TS Bùi Hồng Đăng nêu góc nhìn về phát triển đội ngũ nhà khoa học nữ tại Trường đại học Công Thương TP.HCM - Ảnh: TRỌNG NHÂN
Cũng tại hội thảo, TS Bùi Hồng Đăng - chủ tịch hội đồng Trường đại học Công Thương TP.HCM - cho biết trong năm học 2024-2025, nhà trường có 135 đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, trong đó hơn một nửa có sự tham gia của nữ giới.
Đáng chú ý, 39 giảng viên nữ đã nộp hồ sơ phó giáo sư, 21 cán bộ, giảng viên nữ hoàn thành chương trình tiến sĩ, thạc sĩ.
Không chỉ dừng lại ở nghiên cứu hàn lâm, nhiều giảng viên nữ còn điều phối nhóm nghiên cứu liên ngành, dẫn dắt các đề tài ứng dụng cao, tham gia 12 hợp đồng tư vấn - chuyển giao công nghệ với tổng kinh phí 7,4 tỉ đồng, trong đó có tới 33 giảng viên nữ, chiếm gần 40%.
Ông đề xuất cần có chính sách hỗ trợ thiết thực hơn cho nữ giảng viên, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo lấy phụ nữ làm trung tâm, tăng cường hợp tác quốc tế, xây dựng môi trường làm việc linh hoạt và đẩy mạnh truyền thông, tôn vinh những tấm gương nữ trí thức tiêu biểu.
Theo PGS.TS Nguyễn Minh Hòa - giảng viên Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TP.HCM), nghiên cứu khoa học là công việc nặng nề, đòi hỏi sự bền bỉ, bản lĩnh và với nữ giới, áp lực này thường nhân lên gấp nhiều lần khi vừa gánh trách nhiệm chuyên môn vừa phải lo toan gia đình. Chính vì thế tỉ lệ phụ nữ tham gia nghiên cứu còn hạn chế, nhất là ở những lĩnh vực chính sách, liên ngành hay có tính nhạy cảm cao.
Để tạo môi trường công bằng, ông cho rằng cần thẳng thắn nhìn nhận những khó khăn mà các nhà khoa học nữ đang gặp phải, từ việc tiếp cận nguồn dữ liệu gốc cho đến các rào cản vô hình trong quá trình xét duyệt và triển khai đề tài.
Ông đề xuất một số giải pháp cụ thể: Bộ Khoa học và Công nghệ cần ban hành quy định để nhà khoa học, đặc biệt là nữ giới, được tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn thông tin gốc từ các cơ quan quản lý.
Đồng thời cần hạn chế các tiêu cực liên quan đến tài chính như chi phần trăm cho nhiều khâu trung gian, để các nhà khoa học tập trung cho chuyên môn thay vì gánh nặng ngoài lề.

PGS.TS Nguyễn Minh Hòa trao đổi tại hội thảo - Ảnh: TRỌNG NHÂN
Khép lại hội thảo, Phó trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh phụ nữ không chỉ dừng lại ở vai trò đồng hành, mà cần trở thành lực lượng tiên phong. Ông khẳng định sự phát triển toàn diện của xã hội sẽ không thể thành hiện thực nếu thiếu đi trí tuệ và cống hiến của phụ nữ.
Trong bối cảnh kỷ nguyên số, theo ông Đạt, những phẩm chất đặc trưng của nữ trí thức như tư duy đổi mới, sự mềm dẻo và khả năng gắn kết cộng đồng chính là chìa khóa để tạo ra những bước tiến thực chất trong đổi mới, sáng tạo.
Ông bày tỏ tin tưởng rằng với những giải pháp đột phá được triển khai đồng bộ và quyết liệt, ngày càng nhiều nhà khoa học nữ Việt Nam sẽ có mặt trên các diễn đàn khoa học trong và ngoài nước, góp phần khẳng định vị thế trí tuệ Việt và đóng góp cho sự phát triển bền vững của đất nước cũng như tiến bộ chung của thế giới.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận