
GS.TSKH Bành Tiến Long phát biểu tại hội thảo - Ảnh: NGUYÊN BẢO
Ngày 16-10, Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục - Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đã tổ chức lễ kỷ niệm 10 năm thành lập và hội thảo “Xu thế kiểm định chất lượng giáo dục giai đoạn 2026-2030 với sự trợ giúp của trí tuệ nhân tạo”.
Khi máy móc trả lời hay hơn sinh viên
Chia sẻ tại hội thảo, GS.TSKH Đặng Ứng Vận đưa ra câu chuyện "khi máy móc trả lời hay hơn sinh viên" tại một lớp học ở miền Trung Việt Nam.
Khi giảng viên triết học giao cho sinh viên viết một bài luận về tính xác thực trong thời đại số, một sinh viên đã nộp bài luận với sự trôi chảy "khác thường", với vốn từ phong phú, cấu trúc mạch lạc, nhiều tư liệu rất ít sinh viên Việt Nam biết đến. Khi được giảng viên hỏi, sinh viên nói đã nhờ AI làm, chỉ chỉnh sửa một số câu về giọng văn của mình.
Từ ví dụ trên, ông Vận cho rằng vấn đề khá nan giải, liệu giảng viên có nên đánh trượt sinh viên vì đã sử dụng Chat GPT, mục đích của giáo dục là thể hiện tính độc đáo, năng lực tư duy hay tham gia một cách có ý nghĩa vào các ý tưởng, thậm chí ý tưởng do máy đề xuất?
Theo ông Vận, giáo dục khai phóng nhấn mạnh sự phát triển toàn diện của con người (lý trí, cảm xúc, đạo đức, tự do tư duy), nhưng AI có thể thực hiện các nhiệm vụ phức tạp như: viết, phân tích, giải quyết vấn đề. Sinh viên có thể bị cám dỗ thêm ngoài lao động trí tuệ bằng cách nhờ AI làm giúp.
"Sự xuất hiện của AI không chỉ là tiến bộ công nghệ mà còn là thách thức triết học đối với giáo dục đại học. AI sẽ không thay thế giáo dục, nhưng sẽ định hình lại lý do và phương pháp của giáo dục. Điều này đòi hỏi một triết lý mới - không thay thế cái cũ, mà kết nối, diễn giải và mở rộng chúng trong bối cảnh mới" ông Vận nói.
Tương tự, GS.TSKH Bành Tiến Long - nguyên thứ trưởng thường trực Bộ GD-ĐT, cho biết AI cũng mang theo những thách thức về liêm chính học thuật.
"Nếu không được quản lý, việc lạm dụng AI có thể dẫn đến nguy cơ lạm phát điểm số, suy giảm giá trị thực của văn bằng đại học, khi tỉ lệ bằng cấp loại ưu tăng lên một cách giả tạo", ông Long cho biết.
Nhiều cơ hội khi vận dụng AI vào kiểm định đại học
Về kiểm định chương trình đào tạo/cơ sở giáo dục đại học, ông Bành Tiến Long nhận định mô hình kiểm định truyền thống đang có nhiều hạn chế, trong đó gây tốn thời gian và nhân lực.
Bên cạnh đó, việc chu kỳ đánh giá kéo dài 5-10 năm tạo ra khoảng trống giám sát; thiếu linh hoạt, không phản ánh được chất lượng liên tục; khó phản ứng nhanh với những thay đổi của xã hội.
Chính vì vậy, ông Long cho rằng cần chuyển dịch từ mô hình tĩnh sang mô hình động trong đảm bảo chất lượng, cần đưa AI vào kiểm định chất lượng giáo dục.
"AI có thể xử lý khối lượng báo cáo lớn, phát hiện bất thường trong quá trình đào tạo; giám sát liên tục, theo dõi các chỉ số theo thời gian thực và đưa ra những cảnh báo sớm, thay vì dựa vào chu kỳ 5 - 10 năm như hiện nay", ông Long cho biết.
Theo ông Long, việc triển khai đưa AI vào giáo dục đại học cần có chiến lược theo từng nhóm, trong đó, với cơ quan quản lý nhà nước, cần hoàn thiện khung pháp lý, quy định cụ thể về sử dụng AI; hướng dẫn đạo đức cho việc ứng dụng AI trong giáo dục.
Với các trường đại học, cần xây dựng chính sách nội bộ, hướng dẫn sinh viên và giảng viên cách sử dụng công nghệ có trách nhiệm. Đồng thời tích hợp các quy tắc về đạo đức khi sử dụng AI vào quy chế học thuật của trường.
Ngoài ra, trường đại học cần đầu tư vào hạ tầng dữ liệu và công nghệ để chuyển đổi số toàn diện các quy trình; tổ chức khóa tập huấn định kỳ về AI cho giảng viên.
Với giảng viên và sinh viên, cần đổi mới phương pháp đánh giá và phát triển năng lực AI trong giảng dạy, học tập. Coi AI như một công cụ hỗ trợ công việc và học tập nhưng không ỷ lại.
Nhiều đổi mới trong kiểm định chất lượng giáo dục
Trao đổi tại hội thảo, GS.TS Huỳnh Văn Chương - Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho biết dự kiến từ năm 2026, việc đánh giá chương trình đào tạo và cơ sở giáo dục đại học sẽ có nhiều điều chỉnh lớn.
Trong đó, mỗi tiêu chí đánh giả chỉ ở hai mức "đạt" hoặc "không đạt". Trước đây áp dụng 7 mức gây tranh cãi, khó chuẩn hóa.
Việc đưa về hai mức đạt hoặc không đạt sẽ đơn giản hóa giúp dễ hướng dẫn, minh bạch kết quả, phù hợp thông lệ quốc tế (Mỹ và châu Âu).
Bên cạnh đó việc đưa ra "tiêu chí có điều kiện" sẽ giúp tập trung vào các yếu tố cốt lõi như chuẩn đầu ra,... Nếu không đạt tiêu chí điều kiện tiêu chuẩn sẽ không đạt.
Về việc phân loại chương trình đào tạo/cơ sở giáo dục sau kiểm định, sẽ chia theo ba mức kết quả, gồm: đạt, đạt có điều kiện và không đạt. Các trường có thời hạn 24 tháng để cải tiến nếu xếp hạng "đạt có điều kiện".
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận