
Sinh viên thực hành tại Trường cao đẳng Công nghệ quốc tế Lilama 2 - Ảnh: TRỌNG NHÂN
Chỉ tiêu tuyển sinh chưa phù hợp và thiếu cơ chế điều tiết hiệu quả đang làm méo mó thị trường lao động Việt Nam.
Doanh nghiệp thiếu trầm trọng lao động kỹ thuật, trong khi các trường lại đào tạo ồ ạt cử nhân văn phòng. Sự lệch pha giữa nhu cầu thực và năng lực đào tạo khiến nguồn nhân lực thừa nơi không cần và thiếu nơi cần, tạo ra vòng lặp lãng phí kéo dài.
Đào tạo lệch hướng từ chỉ tiêu đến định kiến xã hội
Trong nhiều năm, thị trường lao động Việt Nam rơi vào tình trạng mất cân đối kéo dài. Doanh nghiệp thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật và những vị trí trực tiếp vận hành, chế tạo, bảo trì; trong khi lại dư thừa nhân sự văn phòng, gián tiếp.
Nền kinh tế cần nhiều kỹ năng sản xuất và vận hành nhưng hệ thống giáo dục lại đào tạo quá nhiều cử nhân văn phòng. Sự lệch pha giữa đào tạo và nhu cầu sử dụng đã trở thành một trong những điểm nghẽn lớn nhất kìm hãm tăng trưởng năng suất của Việt Nam.
Sự mất cân đối này bắt nguồn từ các nguyên nhân mang tính hệ thống, trước hết là cách quản lý chỉ tiêu đào tạo.
Hiện nay, chỉ tiêu được xác định chủ yếu dựa trên năng lực của trường như số giảng viên, phòng học và các điều kiện hành chính tối thiểu, thay vì dựa vào nhu cầu nhân lực thực tế của thị trường.
Vì thế các ngành quản lý, kinh tế, luật có chi phí đào tạo thấp dễ được mở rộng, còn các ngành kỹ thuật đòi hỏi phòng thí nghiệm, xưởng thực hành và đầu tư lớn lại bị thu hẹp vì rủi ro tài chính.
Trong cơ chế tự chủ đại học, các trường càng có xu hướng mở ngành chi phí thấp, dễ tuyển sinh, thay vì tập trung vào những ngành kỹ thuật thiết yếu cho sản xuất nhưng khó thu hút người học và tốn kém để đào tạo.
Một nguyên nhân quan trọng khác đến từ định kiến nghề nghiệp trong xã hội. Suốt nhiều năm, công việc kỹ thuật bị gắn với hình ảnh vất vả, khói bụi và rủi ro, trong khi ngành quản lý hay văn phòng được xem là ổn định và sạch sẽ.
Phụ huynh và học sinh vì thế đổ dồn vào các ngành văn phòng khiến cầu học tập lệch xa nhu cầu lao động thực. Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể kiểm soát chỉ tiêu nhưng không thể điều chỉnh kỳ vọng xã hội, nên khi tâm lý này kéo dài, dòng người học luôn đi ngược lại nhu cầu của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, nhiệm vụ cân đối nhân lực trải rộng ở nhiều bộ ngành và mỗi địa phương lại xây dựng chiến lược nhân lực riêng, khiến dữ liệu bị phân tán và thiếu cơ chế phối hợp đủ mạnh.
Dự báo nhân lực vì vậy không theo kịp tốc độ thay đổi của công nghệ và chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong khi các ngành mới như năng lượng tái tạo, tự động hóa, logistics thông minh hay bán dẫn cần lượng lớn lao động kỹ thuật, hệ thống đào tạo lại phản ứng chậm. Khoảng trễ giữa đào tạo và sử dụng nhân lực ngày càng kéo dài, làm cho sự lệch pha mang tính cơ cấu trở nên nghiêm trọng hơn.
Hậu quả là nền kinh tế rơi vào tình trạng thừa cử nhân nhưng lại thiếu kỹ sư và thợ lành nghề. Doanh nghiệp, đặc biệt trong các ngành chế biến và chế tạo, phải cạnh tranh để giành lao động kỹ thuật, khiến chi phí nhân công tăng và cản trở mở rộng sản xuất.
Trong khi đó, nhiều sinh viên các ngành quản lý, kinh tế hay tài chính không tìm được việc đúng chuyên môn, buộc phải làm trái ngành hoặc chấp nhận mức lương thấp, làm gia tăng thất nghiệp cử nhân và lãng phí nguồn lực đào tạo.
Năng suất lao động cũng khó cải thiện khi lực lượng lao động kỹ năng còn thiếu. Năng suất trong sản xuất phụ thuộc lớn vào khả năng vận hành máy móc, hiểu quy trình, xử lý sự cố và bảo trì thiết bị.
Khi thiếu người đảm nhiệm các vị trí này, doanh nghiệp không thể nâng cấp công nghệ, nâng công suất hay tham gia các khâu có giá trị gia tăng cao, làm giảm sức cạnh tranh của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh các nước ASEAN đang đẩy mạnh đào tạo kỹ thuật cho các ngành công nghiệp tương lai.
Sự mất cân đối nhân lực còn cản trở quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Muốn chuyển từ mô hình dựa vào lao động giá rẻ sang mô hình dựa vào năng suất và đổi mới sáng tạo, Việt Nam cần một lực lượng lao động kỹ năng cao đủ lớn. Nếu đào tạo tiếp tục lệch khỏi nhu cầu thật, nền kinh tế sẽ mắc kẹt ở phân khúc giá trị thấp và khó vươn lên nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Hóa giải vòng lặp mất cân đối
Giải pháp quan trọng nhất là xây dựng một hệ thống dự báo nhu cầu nhân lực quốc gia có độ tin cậy cao, được cập nhật thường xuyên dựa trên dữ liệu doanh nghiệp, xu hướng công nghệ, nhu cầu của các khu công nghiệp và định hướng phát triển vùng.
Dự báo này phải trở thành căn cứ bắt buộc để phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh, giúp xác định rõ thị trường cần bao nhiêu kỹ sư tự động hóa, bao nhiêu kỹ thuật viên công nghệ thông tin, bao nhiêu nhân lực logistics hay điều dưỡng trong từng giai đoạn, tránh tình trạng mở ngành theo cảm tính hoặc chạy theo phong trào.
Trên cơ sở dự báo đó, cần giao chỉ tiêu đúng nhu cầu thị trường. Các ngành thừa nhân lực phải giảm mạnh chỉ tiêu và siết điều kiện mở ngành, trong khi các ngành thiếu nhân lực phải được ưu tiên mở rộng và hỗ trợ đầu tư để giảm chi phí đào tạo. Khi chỉ tiêu bám sát nhu cầu thật, hệ thống đào tạo sẽ dần tiệm cận cấu trúc nhân lực mà nền kinh tế cần.
Song song với đó, phải có cơ chế khuyến khích người học vào các ngành thiếu nhân lực thông qua học bổng mục tiêu, hỗ trợ học phí, tín dụng ưu đãi, chương trình thực tập hưởng lương và mô hình Nhà nước hoặc doanh nghiệp đặt hàng đào tạo.
Khi học kỹ thuật vừa được hỗ trợ chi phí, vừa có cơ hội việc làm cao, dòng dịch chuyển của người học sẽ diễn ra tự nhiên.
Ngược lại, các ngành thừa nhân lực cần được điều tiết bằng việc giảm chỉ tiêu, nâng chuẩn đầu ra, tăng yêu cầu thực tập và công khai tỉ lệ việc làm để người học lựa chọn đúng nhu cầu thị trường.
Cuối cùng, các giải pháp chỉ hiệu quả khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, nhà trường và doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần tham gia xây dựng chương trình, nhận thực tập và đặt hàng nhân lực; nhà trường phải đổi mới đào tạo theo hướng thực hành; còn Nhà nước giữ vai trò điều phối, cung cấp dữ liệu và hỗ trợ tài chính.
Khi ba chủ thể cùng đồng hành, nguồn nhân lực sẽ được phân bổ hợp lý hơn và góp phần nâng cao năng suất, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Khi chỉ tiêu được giao đúng nhu cầu, dự báo nhân lực được cập nhật thường xuyên và người học được hỗ trợ phù hợp, thị trường lao động sẽ được điều chỉnh thông qua cả khuyến khích lẫn hạn chế. Nhờ đó, cơ cấu nhân lực dần trở lại cân bằng.
Đây là con đường giúp Việt Nam thoát khỏi vòng lặp mất cân đối lao động và hình thành một nền kinh tế phân bổ nhân lực theo tín hiệu thị trường, nơi đào tạo gắn chặt với nhu cầu thực của phát triển.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận