
Sinh viên quốc tế tham quan Phòng thí nghiệm vi mạch và hệ thống cao tần của Trường đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TP.HCM) - Ảnh: NHƯ QUỲNH
Tuy vậy xếp hạng không nên là đích đến cuối cùng, mà là bước đệm để đại học Việt Nam khẳng định vị thế trên bản đồ giáo dục toàn cầu.
Nghị quyết 71-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam có ít nhất một cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực trọng điểm.
Cần một cuộc chuyển mình
GS.TS Mai Thanh Phong, hiệu trưởng Trường đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TP.HCM), cho rằng nghị quyết 71 của Bộ Chính trị đặt ra cho cả hệ thống giáo dục một thách thức lớn và là cơ hội lớn để vươn tầm thế giới.
Riêng với mục tiêu đến năm 2030 có ít nhất 3-5 đại học tinh hoa đẳng cấp quốc tế, có tối thiểu 8 trường lọt vào nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á và có ít nhất 1 trường vào top 100 thế giới trong một số lĩnh vực, giáo dục đại học Việt Nam cần một cuộc chuyển mình từ trọng tâm là gia cường chất lượng đến trở thành nhân tố dẫn dắt giáo dục khu vực và thế giới.
Ông Phong khẳng định Việt Nam hoàn toàn có khả năng xây dựng một số trường đại học đạt đẳng cấp châu Á và thế giới trong các lĩnh vực khoa học - công nghệ trọng điểm.
"Để hiện thực hóa cần: chính sách đột phá, minh bạch và linh hoạt; tài chính bền vững, cạnh tranh quốc tế; hệ sinh thái học thuật năng động, sáng tạo; đội ngũ nhân lực tinh hoa, có tầm nhìn toàn cầu", ông Phong nhấn mạnh.
Theo đó, cần có chính sách ưu tiên đầu tư tập trung cho các lĩnh vực mũi nhọn có tiềm năng đột phá toàn cầu. Trao quyền tự chủ và cơ chế đặc thù cho các trung tâm nghiên cứu xuất sắc. Đổi mới hệ thống xếp hạng, đánh giá đại học theo chuẩn quốc tế để thúc đẩy cạnh tranh tích cực. Khuyến khích mạnh mẽ mô hình liên kết ba nhà (Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp), hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo cấp vùng.
PGS.TS Bùi Hoài Thắng, trưởng phòng đào tạo Trường đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TP.HCM), đề xuất: "Nhà nước cần có chương trình trọng điểm hỗ trợ 3-5 trường đại học tiềm năng nhất, giúp họ phát triển vượt bậc và cải thiện thứ hạng quốc tế trong thời gian tới. Đây được xem là bước đi chiến lược để hiện thực hóa khát vọng đưa trường đại học Việt Nam vươn tầm thế giới".
Yếu tố quyết định
PGS.TS Trần Thị Hồng Liên, trưởng khoa quản trị kinh doanh Trường đại học Kinh tế - Luật (Đại học Quốc gia TP.HCM), cho rằng các mục tiêu của nghị quyết 71 rất rõ ràng cho các cơ sở đại học hàng đầu trong nước đạt vị trí cao trong khu vực và trên thế giới ở các bảng xếp hạng có uy tín. Đây là một công việc có tính kỹ thuật và hoàn toàn có thể thực hiện được khi có phương thức quản trị chuyên nghiệp.
Tuy nhiên theo bà Liên, xếp hạng không nên là mục tiêu cuối cùng mà chỉ nên là phương tiện để đưa đại học tại Việt Nam đạt đẳng cấp thế giới. Thực tế cho thấy các đại học đẳng cấp vẫn là đại học hàng đầu cho dù họ có tham gia các bảng xếp hạng hay không.
Để đạt được mục tiêu này, chính sách phát triển giáo dục đại học cần chỉ rõ xếp hạng đại học chỉ là cú hích ban đầu để tiến tới mục tiêu xa hơn là những đại học thực sự có năng lực cạnh tranh toàn cầu.
Các đại học tiềm năng cần sớm xây dựng tầm nhìn toàn cầu cho chiến lược phát triển của mình. Nhà nước đầu tư công mạnh mẽ cho những trường được lựa chọn cho mục tiêu đại học đẳng cấp thế giới, đặc biệt là về hạ tầng và nghiên cứu khoa học thông qua các cơ chế đa dạng (trực tiếp từ ngân sách, thông qua các quỹ hay chương trình, đặt hàng nghiên cứu…).
Theo PGS.TS Phạm Tiến Đạt - hiệu trưởng Trường đại học Tài chính - Marketing, nghiên cứu cho thấy con đường đưa đại học Việt Nam lên tầm khu vực và quốc tế đòi hỏi sự kết hợp đồng bộ giữa tự chủ, đầu tư nghiên cứu, quốc tế hóa, chuyển đổi số và quản trị hiện đại, trong đó vai trò lãnh đạo học thuật và văn hóa chất lượng là yếu tố quyết định.
Mặc dù hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ trong thập niên qua song con đường hướng tới vị thế cao trong các bảng xếp hạng châu Á và quốc tế vẫn gặp phải nhiều thách thức cả về thể chế, nguồn lực và năng lực cạnh tranh học thuật.
"Các rào cản đối với việc nâng cao vị thế xếp hạng của đại học Việt Nam bao gồm: tự chủ chưa thực chất, nguồn lực hạn chế, chất lượng và dữ liệu chưa đồng bộ, quốc tế hóa yếu, văn hóa nghiên cứu chưa bền vững, rào cản thể chế và hành chính, và chuyển đổi số chưa sâu. Con đường đưa đại học Việt Nam đạt vị thế quốc tế phải dựa trên tự chủ thực chất, đầu tư nghiên cứu, quốc tế hóa, chuyển đổi số và quản trị hiện đại", ông Đạt nói.
TS Lại Văn Nam, viện trưởng Viện kinh tế chính trị quốc tế Trường đại học Tài chính - Marketing, cũng cho rằng để đạt được bước đột phá mạnh mẽ hơn cần thiết lập một cơ chế phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước - các trường đại học - doanh nghiệp gồm: chính sách hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ, cơ chế tự chủ thực chất, đầu tư trọng tâm vào các lĩnh vực tinh hoa và đổi mới quản trị không ngừng được triển khai tại các trường và sự hỗ trợ về vốn, cơ hội việc làm từ doanh nghiệp.
Thu hút nhân tài toàn cầu
TS Phan Hồng Hải, hiệu trưởng Trường đại học Công nghiệp TP.HCM, cho rằng muốn tiệm cận top 100 thế giới trước hết các trường đại học Việt Nam cần xây dựng được đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành đạt tầm cỡ quốc tế.
Muốn vậy cần có chính sách mạnh mẽ để thu hút nhân tài toàn cầu, từ việc gửi nghiên cứu sinh, giảng viên đi đào tạo tại các trung tâm học thuật hàng đầu thế giới cho đến việc mời gọi các giáo sư, chuyên gia quốc tế về hợp tác dài hạn tại Việt Nam.
Cùng với phát triển nguồn nhân lực đỉnh cao, việc kiến tạo môi trường nghiên cứu và đổi mới sáng tạo đẳng cấp quốc tế ngay trong nước cũng rất quan trọng. Điều này đòi hỏi phải đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm hiện đại, thúc đẩy hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, khuyến khích công bố kết quả khoa học trên các tạp chí uy tín hàng đầu.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận