Hàng nghìn người dân vẫn sinh sống bằng nghề cào nhuyễn thể ở cửa sông Cái Lớn đổ ra vùng biển Tây Nam - Ảnh: K.NAM
Theo tôi là nên thận trọng, đừng để phóng lao rồi phải theo lao
GS NGUYỄN NGỌC TRÂN
(nguyên chủ nhiệm Chương trình cấp nhà nước điều tra cơ bản tổng hợp khu vực ĐBSCL)
Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều ý kiến băn khoăn, lo ngại trước những tác động chưa thể lường trước được về mặt môi trường sinh thái của cả vùng đất rộng hàng trăm nghìn hecta với hàng triệu hộ dân sinh sống.
Công trình ngăn mặn lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long
Cơ quan chủ quản dự án này là Bộ NN&PTNT, đơn vị chủ đầu tư là Ban quản lý đầu tư và xây dựng thủy lợi 10 (gọi tắt là Ban 10, trực thuộc Bộ NN&PTNT). Các đơn vị lập dự án gồm có: Viện Khoa học thủy lợi Việt Nam, Công ty CP Tư vấn xây dựng thủy lợi II (HEC II) và Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam.
Trong giai đoạn 2017-2020, dự án sẽ tiêu tốn khoảng 3.300 tỉ đồng vốn trái phiếu chính phủ cho các hạng mục: cống Cái Lớn, cống Cái Bé, đê nối hai cống với quốc lộ 61, kênh nối hai dòng sông Cái Lớn, Cái Bé để điều tiết mực nước, âu thuyền. Đây là dự án thuộc nhóm A.
Ông Lê Hồng Linh - giám đốc Ban 10, chủ đầu tư dự án - cho hay đây là dự án kiểm soát mặn chủ động, giúp giải quyết mâu thuẫn giữa vùng nuôi trồng thủy sản ven biển và vùng sản xuất nông nghiệp của nhiều địa phương ở tây sông Hậu.
Đồng thời chủ động kiểm soát mực nước, tăng khả năng thoát lũ, tiêu úng nhằm giảm ngập úng cho vùng trũng dọc sông Cái Lớn - Cái Bé.
Dự án đáp ứng yêu cầu sản xuất cho diện tích khoảng 906.758ha (607.369ha đất nông nghiệp, 70.910ha đất lâm nghiệp, 83.305ha đất nuôi trồng thủy sản và 145.174ha đất khác) thuộc các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Sóc Trăng và TP Cần Thơ.
Đảm bảo giao thông thủy trong thời gian ngăn triều, mặn và đảm bảo không ảnh hưởng lớn đến giao thông thủy liên vùng theo yêu cầu quy hoạch giao thông. Và đặc biệt là góp phần phát triển giao thông thủy - bộ, cải thiện môi trường sinh thái trong khu vực.
Nếu dự án được triển khai đúng như dự kiến, đây sẽ là một trong những dự án ngăn mặn lớn nhất ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Phối cảnh cống Cái Lớn
Nhiều lo ngại
Mới đây, vào cuối tháng 4-2018, một đoàn chuyên gia, nghiên cứu đánh giá rủi ro các công trình trong điều kiện biến đổi khí hậu đến từ các nước Đức, Canada; chuyên gia trong nước... đã có chuyến đi đến tận nơi dự kiến xây dựng cống Cái Lớn, Cái Bé ở tỉnh Kiên Giang, cảm nhận được sự đặc biệt của vùng đất này.
Tại đây, các chuyên gia bước đầu nhận định: Các nghiên cứu chỉ ra rằng vận hành hợp lý cống Cái Lớn - Cái Bé góp phần kiểm soát mặn và giảm thiệt hại hạn hán, còn tăng mực nước ngọt vào mùa khô là tác động có lợi đến sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
Tuy nhiên, GS.TS Tăng Đức Thắng - phó giám đốc Viện Khoa học thủy lợi Việt Nam - cũng nêu ra những biến động khó lường trong tương lai. Đó là nguồn nước hiện đã rất khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, tương lai còn khó khăn hơn.
Bên cạnh đó, các nguồn xả thải gia tăng cả từ công nghiệp và nuôi trồng thủy sản, nông nghiệp, sinh hoạt, dự báo tăng gấp 1,5 lần ở năm 2030.
Hệ thống thủy lợi hiện hữu chưa đáp ứng được về phòng chống thiên tai và thời tiết cực đoan (do hạn hán, xâm nhập mặn, nước biển dâng, sụt lún đất) nên sản xuất bấp bênh, tranh chấp giữa các môi trường mặn - ngọt - lợ còn kéo dài.
Vì thế, theo GS Thắng và các chuyên gia ở viện này, cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ: so sánh việc đầu tư cống Cái Lớn - Cái Bé với các giải pháp làm đê bao nhỏ, bao vừa, bao lớn về kinh tế, kỹ thuật để khẳng định phương án xây dựng cống là tối ưu.
Tính toán thêm giải pháp xây dựng trạm bơm đầu sông Hậu. Đặc biệt, khi phù sa thượng nguồn về ít thì đáy sông Hậu bị hạ thấp sẽ ảnh hưởng thế nào đến hiệu quả hệ thống Cái Lớn - Cái Bé.
Cần đánh giá chi tiết hơn các ảnh hưởng của hệ thống đến vấn đề môi trường...
GS Nguyễn Ngọc Trân - nguyên chủ nhiệm Chương trình cấp nhà nước điều tra cơ bản tổng hợp khu vực ĐBSCL - cũng cho rằng cần hết sức thận trọng với dự án xây hai cống Cái Bé, Cái Lớn.
Theo GS Trân, cần đánh giá tác động của dự án, trong đó có đánh giá, làm rõ mức độ ảnh hưởng, tác động đến môi trường nước, đất trong khu vực dự án. Làm rõ cơ chế vận hành, phối hợp với hệ thống các cống đập khác trong vùng dự án.
Phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường trình Bộ Tài nguyên - môi trường thẩm định, phê duyệt...
Ngoài ra, theo GS Trân, dự án chắc chắn tác động sâu sắc đến môi trường tự nhiên, đến sản xuất, sinh kế của cả triệu người dân trong vùng ảnh hưởng.
Vẫn còn đó bài học về việc không tôn trọng quy luật tự nhiên từ các dự án: ngọt hóa bán đảo Cà Mau, ngọt hóa bắc Bến Tre, mâu thuẫn giữa người trồng lúa với người nuôi tôm...
Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Văn Tâm - giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Kiên Giang - cho biết tỉnh sẽ đề nghị chủ đầu tư cung cấp thêm thông tin để báo cáo xin ý kiến lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh Kiên Giang về dự án này.
"Việc khảo sát, xin ý kiến Chính phủ duyệt chủ trương... là việc của chủ đầu tư dự án và các đơn vị tư vấn. Riêng với ngành nông nghiệp Kiên Giang, rõ ràng đây là dự án lớn, ảnh hưởng nhiều khía cạnh nên phải rất thận trọng" - ông Tâm nói.
Dự án đắt đỏ, không cần thiết
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện - chuyên gia độc lập về sinh thái ĐBSCL - cho rằng dự án thủy lợi sông Cái Lớn - sông Cái Bé là đắt đỏ vì có kinh phí lên đến 3.300 tỉ đồng cho giai đoạn một và 3.500 tỉ đồng cho giai đoạn hai, ảnh hưởng một vùng rộng lớn đến 1/4 ĐBSCL.
Theo ông Thiện, những biện luận về sự cần thiết và cấp bách của dự án không thuyết phục.
Ông Thiện lập luận: "Những luận điểm cho rằng công trình này cần thiết và cấp bách là từ tình hình hạn mặn mùa khô 2016, nguy cơ nước biển dâng, ĐBSCL phải gánh trọng trách bảo đảm an ninh lương thực, nguy cơ cạn kiệt nguồn nước ngọt ĐBSCL do tác động từ các nước thượng nguồn. Tất cả lý do này đều thiếu thuyết phục".
Ông Thiện đưa ra 4 lý do. Thứ nhất, sự kiện cực đoan gây hạn mặn như mùa khô 2016 không nên bị lạm dụng làm chuẩn tình hình chung để xây dựng công trình. Một khi hạn mặn cực đoan xảy ra như năm 2016 thì công trình ngăn mặn cũng không tác dụng.
Thứ hai, không hiểu vì sao mực nước biển dâng của kịch bản 2009 vẫn còn được sử dụng, thay vì kịch bản mới 2016 của Bộ Tài nguyên - môi trường.
Thực tế nước biển dâng chỉ khoảng 3mm/năm, chuyện đồng bằng bị sụt lún nhanh nhiều lần do khai thác nước ngầm quá mức một phần do sông ngòi không còn chảy, tích tụ ô nhiễm, không sử dụng được như xưa mới là điều đáng lo.
Thứ ba, cho rằng ĐBSCL phải gánh trọng trách an ninh lương thực, suy ra phải ngăn mặn để duy trì sản lượng lúa cũng thiếu thuyết phục.
Hằng năm, ĐBSCL sản xuất trung bình 25 triệu tấn lúa, xuất khẩu hơn 50%, khó có thể nói ta cần đến 25 triệu tấn để đảm bảo an ninh lương thực.
Năm 2016 hạn mặn cực đoan như thế mà ĐBSCL vẫn xuất khẩu 4,88 triệu tấn gạo, an ninh lương thực quốc gia chưa hề bị đe dọa nếu ta không tự gánh vai trò an ninh lương thực cho thế giới.
Thứ tư, cho rằng nguồn nước ngọt chảy vào ĐBSCL sẽ bị cạn kiệt do tác động từ các nước thượng nguồn là tuyên bố võ đoán. Đối với thủy điện, vấn đề chính là phù sa và thủy sản, không phải về lượng nước.
Về số lượng nước, tóm tắt nhanh thì trong những năm lũ cao thủy điện gây lũ chồng lũ, những năm khô hạn thủy điện làm hạn - mặn trầm trọng hơn. Còn trong những năm bình thường, tức là trong đa số các năm, thủy điện tác động rất ít đối với lượng nước.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận