Ông Victor Lưu Văn Vi và bà Tạ Thị Bích Ngọc trên thuyền buồm Tiki30 Veronique - Ảnh: Cung Thụy
Biển Vũng Tàu 5h chiều, gió lộng, nắng đổ vàng, bóng những cây dương đổ dài trên cát. Mấy chàng trai cô gái quần ngắn chân dài khoác áo phao chạy ra biển. Chiếc thuyền buồm bập bềnh hứng gió đưa họ lượn mấy vòng trên vùng biển.
Trên bãi cát, một chiếc cột buồm cắm thẳng đứng trên cát, bên cạnh là bộ quần áo, chiếc thắt lưng, cuộn dây thừng, mấy cành củi khô chất thành đống sẵn sàng chờ mồi lửa. Tôi đang dự nghi lễ tiễn đưa một người chơi thuyền buồm.
Tất cả đứng vòng tròn xung quanh. Chị Tạ Thị Bích Ngọc cầm mồi lửa, hướng ra biển, mắt đăm đắm nhìn cây cột buồm: "Hôm nay là 49 ngày anh - Victor Lưu Văn Vi - ra đi.
Theo tín ngưỡng và tục lệ Việt Nam, 49 ngày linh hồn sẽ đi hẳn khỏi dương thế. Em và các anh em câu lạc bộ thuyền buồm đến bãi biển quen thuộc này của anh, gửi thêm cho anh những vật dụng mà anh vẫn dùng. Hi vọng ở thế giới bên kia, anh vẫn tiếp tục những cuộc ngao du thú vị trên bờ biển mà anh yêu thương...".
Ngọn lửa bùng lên liếm quanh cột buồm, dây buồm. Gió đổi chiều thổi về phía biển. Lửa tàn, thủy triều vừa lên, cuốn nốt những tàn tro.
Chuyện về Vi của Ngọc
Chúng tôi quen nhau từ năm 1973 khi cả hai đang cùng học ban chính trị - kinh doanh tại ĐH Đà Lạt. Tiếng là học "chính trị" nhưng chúng tôi đều chẳng hề quan tâm đến những biến động thời cuộc và cả cuộc chiến sát bên mình. Đà Lạt ngày ấy xanh mướt, mát lạnh, thơ mộng quá, tuổi 20 của chúng tôi lãng mạn quá. Tình yêu cứ tự nhiên mà lớn giữa giảng đường, thư viện, đồi thông...
Tháng 5-1975 chúng tôi sẽ tốt nghiệp, sẽ đi làm ở Sài Gòn - nơi đô hội phồn hoa hay Nha Trang quê tôi, hay Đà Nẵng quê anh Vi, rồi sẽ cùng nhau lập một gia đình nhỏ của riêng mình. Dự kiến tương lai của hai cô cậu sinh viên ngành kinh doanh là như thế.
Giữa tháng 3-1975 xảy ra sự kiện mà sau này tôi biết là một cột mốc: Buôn Ma Thuột thất thủ. Người ở đâu chạy về nhao nhác Đà Lạt. Anh họ tôi là giảng viên ĐH Đà Lạt bảo tôi đưa các con của ông về Nha Trang với gia đình tôi. Vi muốn đi cùng nhưng tôi lại sợ người ta dị nghị, không cho anh đi theo. Ngày ấy lễ giáo nằm sẵn trong đầu ngăn cản từng bước.
Trên xe đò đi về tôi mới bắt đầu cảm nhận được chiến tranh qua những chiếc xe nườm nượp xuôi ngược, những bàn tán ồn ào, những tin đồn khủng khiếp. Lúc ấy, lần đầu tôi biết khiếp sợ chiến tranh.
Về tới Nha Trang, thấy ba tôi đang ngồi trong phòng khách với rất nhiều bạn bè, bàn chuyện đi hay ở. Ba tôi là chủ trung tâm sinh ngữ dạy tiếng Anh lớn nhất Nha Trang lúc ấy, ông quen và làm việc với nhiều người Mỹ nên cảm thấy rất ung dung. Ông bảo: chưa cần phải đi, cứ ở đó đã rồi tính.
Tôi chạy ra bưu điện, đánh điện cho Vi: "Vi về Nha Trang với em nha". Năm phút sau lại tiếp: "Thôi, ba nói không sao. Vi ở lại thi tốt nghiệp đi". Mười phút sau: "Nghe đồn khó yên. Vi về đây đi"... Hôm sau, Vi xuất hiện trước mặt tôi, kể rằng ngay chiều hôm tôi đi thì Đà Lạt trở nên rối loạn, lộn xộn. Mọi người đều chạy đi đâu đó. Anh không thể quay về Đà Nẵng nên tìm xuống Nha Trang.
Hôm sau nữa, ba tôi đưa hai anh trai và Vi ra tàu hải quân để vào Sài Gòn. Tôi phải ở lại Nha Trang với ba mẹ và hai em gái. Mỗi ngày trôi qua như một năm với tin tức đồn thổi dồn dập từ mọi phía. Sang tháng 4, ba nói với mẹ: "Phải đi thôi".
Mẹ tôi đứt ruột, chẳng ai muốn bỏ nhà bỏ cửa. Nhưng rồi vẫn đi. Tin báo về là quốc lộ rất nguy hiểm. Ba xuống làng chài mua đứt một chiếc thuyền đánh cá, thuê hai ông ngư dân giỏi, đưa cả chiếc ôtô của gia đình xuống tàu.
Mẹ may mỗi người một túi vải hai ngăn. Ngăn dưới là giấy tờ, tiền vàng, ngăn trên đựng hai bộ quần áo, túi gạo sấy, túi thuốc. Nước mắt ngắn dài, hoang mang sợ hãi. Chúng tôi xuống tàu.
Trải qua một đêm trên biển, chiều hôm sau chúng tôi cập vào Vũng Tàu. Vừa lên cầu cảng, giữa đám đông, tôi thấy bóng cao lớn của Vi, rồi tới hai anh tôi. Mấy anh em đã ra cảng ngóng suốt mấy ngày rồi. Mừng quá, tất cả chúng tôi lại lên xe đi Sài Gòn.
Về ở nhờ nhà bà con, tôi cứ ngỡ Sài Gòn vẫn yên ổn như những lần tôi đến nghỉ hè trước đây, các chị vẫn đi chợ mua hoa về cắm, vẫn cân bột đong đường làm bánh. Nhưng đó là ở trong nhà, còn bên ngoài ba tôi đang chạy khắp nơi, liên hệ khắp chỗ để tìm một chuyến bay.
27-4, cả nhà chúng tôi 10 người với Vi là 11 cùng vào sân bay. Người chờ đợi nằm ngồi la liệt, hành lý chất đống. Máy bay dập dìu nhưng vẫn không có chỗ nào cho chúng tôi.
Trải qua một đêm trong sân bay. Sáng 28-4, một chiếc máy bay bị rơi, rồi sân bay bị pháo kích, ném bom, tin báo tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng đã đi khiến không khí càng hoảng loạn. Rồi không hiểu sao như một giấc mơ, chúng tôi tìm thấy một chiếc máy bay duy nhất đậu ở đó, tất cả chạy lên đó ngồi chờ sẵn.
Rất lâu, bỗng có một phi công Mỹ chạy tới, leo lên buồng lái. Hai người lính khác lăm lăm súng đứng ở cửa. Máy bay bốc lên. Tất cả chúng tôi òa khóc. Hai bên đường băng là những núi vali...
Chúng tôi ra đi trong tâm trạng đã mất tất cả, không đường về.
“Thủ lĩnh” Lưu Văn Vi hướng dẫn các bạn trẻ cách điều khiển thuyền buồm - Ảnh: Cung Thụy
Trở thành người Mỹ - trở lại Việt Nam
Sang Thái Lan rồi đến Mỹ. Cô sinh viên tiểu thư là tôi đã biết tự xuống phố, đến các tiệm ăn để tìm việc làm ngay từ ngày đầu tiên. Sau đó là đi học. Rồi tìm những công việc tốt hơn...
Chúng tôi gặp may khi đến Mỹ vào những năm kinh tế phát triển nhanh, dễ tìm việc làm. Tôi với Vi thành hôn năm 1977. Giấc mơ của chúng tôi cuối cùng lại thành hiện thực cách quê nhà tới nửa vòng trái đất. Tôi làm trong ngành ngân hàng, Vi cũng làm ngân hàng, nhưng sau đó rẽ hướng sang viết phần mềm máy tính là ngành mới đang rất phát triển thời ấy.
Chúng tôi thăng tiến trong nghề nghiệp, sinh con và gần như đã trở thành người Mỹ. Những kỳ nghỉ chúng tôi thường đi vùng biển. Tắm nắng, bơi, đi thuyền.
Vi cứ nhắc hoài đến biển Đà Nẵng, quê anh, nhưng Việt Nam với chúng tôi như là một giấc mơ sau khi đã thức dậy, không thể nắm níu được nữa. Những câu chuyện về khó khăn kinh tế ở Việt Nam những năm đầu với tôi rất nhức nhối, rồi cũng phai nhạt đi khi Vi đón được cha mẹ anh sang đoàn tụ sau 8 năm chờ đợi.
Nhưng Vi vẫn khắc khoải. 1998, Vi về Việt Nam lần đầu. Hai tuần sau, anh quay lại, nói: "Để làm ăn ở Việt Nam thì còn khó khăn lắm". Bận rộn, tôi quên câu chuyện đó. Nhưng rồi năm sau anh lại về, kể rằng được một người bạn mời về giúp khoa công nghệ thông tin ở một trường đại học TP.HCM. Rồi anh lại về nữa, kể rằng đang làm thủ tục mở một công ty, mua một khoảnh đất xây nhà tại quận 7...
Năm 2004 tôi về chơi cùng anh, vẫn là Sài Gòn đấy, vẫn ấm áp nhưng có gì đó xa lạ. Nha Trang làm tôi phát khóc lên vì hầu như không còn chút gì của ngày xưa, chỉ có những món đặc sản quen thuộc là vẫn thế: nem nướng, bò nướng, gỏi cá, bún cá...
Đến 2006, Vi nói với tôi: "Căn nhà ở Sài Gòn xây xong rồi, công ty bên ấy đang phát triển, các con mình rời nhà đi học đại học hết. Hay mình về Việt Nam, khỏi đi - về nhiều, tốn kém".
Trở về Việt Nam là việc mà tôi chưa từng nghĩ đến, cho đến lúc đó chúng tôi đã sống ở Mỹ hơn 30 năm rồi. Ấy vậy mà vừa nghe anh nói, tôi đồng ý ngay. Tôi bảo Vi: phải làm ngay, thật nhanh, kẻo các anh chị em, bạn bè đến can ngăn, em lại đổi ý.
Tôi xin nghỉ hưu sớm 10 năm. Chúng tôi thuê cả một container để chở tất cả những món đồ đạc quen thuộc trong căn nhà của tôi ở Mỹ, dọn lại một căn nhà mới mà vẫn quen thuộc cũ kỹ ở quận 7.
Tôi đã mất một thời gian khá dài để làm quen trở lại với Việt Nam, tìm một công việc mới và vui với Sài Gòn. Còn Vi thì không, anh ấy hòa nhập rất nhanh, mau chóng có rất nhiều bạn bè, say mê với công ty phần mềm SiGlaz của anh và thú vui thuyền buồm. Vi nói anh rất vui vì đóng góp được cho Việt Nam với khả năng của mình.
Mười mấy năm, chúng tôi đã cùng nhau đi du lịch khắp Việt Nam. Việt Nam đã trở lại là đất nước của tôi. Con trai chúng tôi cũng đã chọn Việt Nam để xây dựng sự nghiệp và gia đình riêng của mình.
Nay anh Vi đã đi xa rồi, nhưng chúng tôi vẫn đang ở lại.
Thuyền buồm Tiki30 Veronique của ông Lưu Văn Vi trên biển Vũng Tàu - Ảnh: Cung Thụy
Yêu biển và mơ ước về biển
Là người say mê với tất cả những gì liên quan đến lĩnh vực hàng hải, ông Đỗ Thái Bình làm bạn với ông Lưu Văn Vi từ nhiều năm nay. Ông hào hứng kể về người bạn của mình: "Với câu lạc bộ chơi thuyền buồm toàn những người trẻ, anh Vi là người lớn tuổi nhất nhưng tâm hồn rất trẻ, rất mơ mộng nên được phong là "thủ lĩnh".
Anh đã lấy bằng lái thuyền buồm ở Mỹ, lại tự nghiên cứu rất bài bản. Anh biên soạn tài liệu thuyền buồm, lập một xưởng ở nhà riêng để thiết kế các mô hình thuyền, vừa nghiên cứu vừa hướng dẫn, mở lớp dạy cách chơi thuyền buồm.
Vi tự đóng chiếc tàu hai thân Tiki 30 (dài 30 feet) đặt tên Veronique, đi nhiều nơi dọc bờ biển Việt Nam, lại đưa cả câu lạc bộ sang chơi thuyền buồm ở Phuket (Thái Lan) để tiệm cận thế giới".
Ông Bình trầm ngâm: "Anh Vi với tôi rất tâm đắc với nhau ở tình yêu biển và mơ ước về biển. Chúng tôi đều mơ ước Việt Nam phải thực sự là một quốc gia biển, có lực lượng hải quân hùng mạnh, ngư dân hùng hậu và cả những người chơi thuyền nghiệp dư nhưng kỹ năng chuyên nghiệp và tình yêu biển tràn đầy, có văn hóa biển sâu dày với những khu bảo tồn thiên nhiên biển, bảo tàng tàu thuyền...
Vi còn mong ước thú chơi thuyền buồm sẽ phát triển, đưa đến cho những người dân biển thêm một phương cách tiệm cận biển, sinh kế với biển, vừa sống vừa chơi với biển".
Bãi biển đã diễn ra buổi lễ "hóa vàng" cột buồm ấy có một cái tên lãng mạn: Thuyền buồm kể chuyện.
Đây là một sân chơi mà Đỗ Cung Thụy cùng những người bạn trẻ cùng đam mê lập ra dành cho các nhóm, gia đình trẻ đến cắm trại và chơi các trò chơi biển: chèo thuyền, lướt ván, thuyền buồm. Nói về ông Vi, Thụy chỉ gật đầu nhỏ nhẹ: "Hàng ngàn dặm biển đã được trải nghiệm cùng anh là điều trân quý nhất".
Hàng ngàn dặm biển ấy Thụy lưu giữ trên trang cá nhân của mình bằng vài đoạn clip ngắn, vài ảnh chụp "ông già và biển cả" - cách Thụy gọi ông Vi. Trong những tấm ảnh ấy, ông Vi cặm cụi bên cột buồm, cột dây lèo, cạo hà bám, duỗi chân sảng khoái trên mũi tàu, mắt đăm đắm nhìn phía biển.
Họ đã cùng nhau lái buồm tránh bão ở Nha Trang, say sưa đi dọc những dòng sông, những bãi biển dài, thám hiểm những ghềnh đá, tập lái suốt đêm ngoài khơi Vũng Tàu để chuẩn bị chuyến đi Côn Đảo, hồi hộp đi đón từng chặng chiếc bè tre vượt biển mang tên oai hùng Nhụy Kiều tướng quân...
"Anh Vi luôn nhắc nhở chúng tôi: để có những phút đắm mình vào không khí của biển, sảng khoái cười vang trời, cùng nhau cụng chai bia trên boong tàu, thì chơi thuyền buồm phải nghiên cứu, học hỏi nghiêm túc, phải lao động thật sự rất cực nhọc và còn không được phép sai sót nữa".
Thụy đã cùng với ông Vi soạn cả tập tài liệu "Du thuyền buồm nhập môn", tổ chức lớp học thuyền buồm căn bản, rủ rê những người nhập cuộc chơi thuyền thật bài bản...
"Giấc mơ thuyền buồm vượt đại dương của anh Vi vẫn ở phía trước, đợi chúng tôi", Thụy mỉm cười nhìn ra biển, nơi có những cánh buồm nhiều màu sắc đang bập bềnh.
Câu chuyện của một người ra đi và trở về đã được kể và viết tiếp như thế.
Hồi mới trở về, tôi buồn lắm. Việt Nam gần như xa lạ, không còn ai quen. Năm đầu tiên tôi quay về Mỹ 4 lần, tưởng đã bỏ cuộc trở về. Nhưng rồi lại sang.
Tôi chợt nghĩ tới nghề dạy học của ba mình mà tôi đã quen thuộc và thực hành nhiều lần trong đời. Tôi soạn CV rồi đi gửi ở nhiều trường trong thành phố. Thế rồi tôi tìm được việc làm phù hợp, vui vẻ, gần nhà: trở thành cô giáo lớp 3 ở Bình Chánh, TP.HCM.
Đã 14 năm, nhà trường, các học sinh tuổi lên 9 đã là gia đình thứ hai và giờ đây là niềm vui và mối gắn kết chính yếu của tôi với Việt Nam khi anh Vi đã đi xa. Không làm được gì nhiều, tôi chỉ biết đóng góp cho Việt Nam bằng cách dạy thật tốt những đứa trẻ.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận