Phóng to |
Ảnh phác họa tượng đài mẹ Nguyễn Thị Thứ của tác giả Đinh Gia Thắng - Ảnh Đăng Nam |
<?xml:namespace prefix = o />
Thưa Mẹ, phía trăng lên
1.
Mười một bát hương
Mười một bằng Tổ quốc ghi công
Trĩu trên đầu mẹ
Chõng tre
Đêm hè
Mẹ nằm yên
Lặng nghe
Kẽo kẹt cửa
Ai như tiếng các con về
Ngọn gió hờ
Đùa mẹ suốt năm canh
Trên thế giới xưa nay
Bao cuộc chiến tranh
Có người mẹ nào như mẹ?
Chín con đẻ
Một con rể
Hai cháu ngoại
Lần lượt lên đường cầm súng
Lần lượt hóa thành mây trắng trời xanh
Các con mẹ
Tự Xiến, Hàn Anh, Hàn Em, Tự Lem
Hy sinh thời đánh Tây
Tự Chuyển, Tự Nự, Tự Cẩn, Tự Thịnh, Tự Trịnh
Hy sinh thời đánh Mỹ
Tự Chuyển con trai đầu
Ngả xuống lúc chín giờ ba mươi, tháng tư, năm bảy lăm
Hai Trị-chị cả
Bám trụ nuôi quân
Mỹ bắn gãy chân, ngồi tù
Trước gánh tang chồng
Sau gánh tang con
Một nhà đông, cao núi non
Chỉ còn hai bà mẹ góa
Người mù bám người què
Khuya sớm nương nhau
Ông Ba Trị-nhà mẹ
Thời trẻ khỏe như trâu cày
Ở đợ, làm thuê khắp làng ruộng cạn bàu Đưng
Tuổi ngoài tám mươi
Ruộng nếp hương cao quá đầu
Vẫn trùng trục nắng mưa
Quanh năm một thứ ăn kho mặn
Tất tần tật của ngon
Nhường hết “anh em đằng mình”
Nhớ ngày đi nhận huân chương
Ông chỉ cười khấc khấc:
Công cán nhà mình
Bằng cái móng tay..
2.
Xưa, nơi chợ Vải sông Thanh
Làng Thanh Quýt
Có cô dệt vải xóm Chay
Phải lòng anh nông dân Ba Trị xóm Rừng
Muối mặn gừng cay
Vợ chồng bình dị
Như đất cát pha
Áo nâu, vải ta
Những đứa con
Bù lăn bù lóc
Theo xóm theo làng
Xóm Rừng ít ruộng nhiều màu
Nhà mẹ đông con
Khoai chạc khoai chìu sắn lát cõng cơm
Mẹ mớm, mẹ đơm hết nồi hết trả
Ngọn dền ngọn lang
Mắm dưa mắm cái
Vợ chồng cắc ca cắc củm dụm dành
Mua ruộng nuôi con
…
Đồng quê yên lành
Bỗng đùng đoàng Trảng Nhật, Giáp Năm
Pháo dập, pháo dồn xóm Trên, xóm Dưới
Xóm Rừng, xóm Chay máu loang nhà đổ
Giặc đến nhà đàn bà…khổ nhất
ứng vào đời mẹ gian nan?
Hố hụi hò khoan
Từ đống tro tàn
Mẹ mài dao phay, mẹ vung đòn gánh
Còn bụi chuối sau hè
Là còn sống mái tử sinh!
Hố hụi hò khoan
Con ơi con théc cho muồi
Để mẹ gánh nước tưới vồng khoai lang
Để mẹ trồng bí lợp giàn
Giúp anh vệ quốc đánh tan giặc thù
Hết đảm phụ mẹ đi dân công
Hết cơm lo cháo, hết mì lo khoai..
3.
Tưởng rằng nạn khỏi tai qua
Hết giặc Tây đến giặc Mỹ muốn “ làm cha” nước mình
Làng mẹ vào cuộc đấu tranh
Mỹ trên ngụy dưới rập rình đạn bom
Xe cày mồ mả ruộng vườn
Ly khai tố Cộng
Khu dồn “ kiến thiết” thép gai
Có ai biết, ai ngờ
Dưới bờ tre, chuồng heo nhà mẹ
Những hầm bí mật
Trong vườn hoang buồng kín
Hầm dài nuôi giấu thương binh
Nửa đêm tim thót giật mình
Tiếng giày đinh, tiếng rập rình nguy nan
Ngọn đèn hột vịt
Tắt-đỏ đêm đêm bạc trắng mái đầu
Cho “anh em đằng mình” đi lọc lách ngang
Cho cán bộ họp bàn phương án
Cờ Mặt trận, cờ búa liềm, truyền đơn cách mạng
Từ những căn hầm của mẹ bật lên
Bật lên Tiếng hô xung phong
Bật lên rùng rùng trận đánh
Trả thù anh Trỗi, anh Hưng
Thủy Bồ, Hà My, chợ Được
Uất ức căm hờn
Điện Thắng, Điện Bàn đất mẹ sục sôi bom đạn
Cái thời HU1A bắn dạo
Mỹ lếch, ngụy càn chà đi xát lại
Cái thời “đằng mình”
Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng
Cái thời giặc săn lùng, đốt nhà, xăm hầm
Mẹ vẫn ung dung nhai trầu
Giả vờ mắng chó đuổi gà
Giả vờ mời mía, mời trà
Đánh lừa bọn địch gian manh
Chiến tranh bom đạn không chừa
Mồ mả ông bà, đình làng miếu xóm
Mẹ dạy con:
Đói lòng ăn một quả sung
Còn hơn ở trại tập trung An Hòa
Ta về ta ở nhà ta
Ôm cây cột cháy cũng là danh thơm
4.
Gia tài mẹ
Chiếc rương gỗ-của hồi môn
Đựng giấy tờ, áo dài khăn đóng
Khi đằng mình về, bỗng hóa ngách ngăn
Vải vóc, thuốc men, tương cà gạo muối…
Mẹ nói có chi đâu nhiều
Của để, của dành cho hết “anh em”
Giặc đến khám rương
Mẹ bảo tích trữ phòng cơ cho ngày mưa lũ
Giặc đến đập tủ đốt nhà
Mẹ liều thân già cứu nguy rương gỗ
Trước đòn thù mũi súng
Mẹ bảo đây là kỷ vật gia đình
Sống mái giật giành
Rương hóa thành hòm
Lỡ mẹ hy sinh
Gia tài mẹ
Những chiếc nồi Thạch Sanh
Nồi một-vợ chồng son
Nồi hai, nồi ba-thêm nhiều mặt con
Nuôi cả đại đội, tiểu đoàn
Mẹ dùng nồi bảy, nồi mười
Dưới ánh hỏa châu mẹ ngồi sàng sảy
Những mùa vàng dưới đạn trên bom
Những hạt chảy ròng
Đòn cong lưng mẹ
Mẹ đun rơm đun rạ, nhánh tre gai, cây sắn khô, cành mít rụng
Tro rắc bạc trên đầu
Lửa đùa reo trong mắt
Mẹ móm mém cười cơm ngon canh ngọt
Đắm đuối cái nhìn dãy hầm ở góc bờ tre
Những chiếc nồi ba, nồi bảy nuôi đàn con lớn khôn
Nuôi đại đội Phan Thanh diệt đoàn xe công-voa giặc Tây nơi Gò Phật
Nuôi Cúc xã đội phó-cô cháu ngoại và tiểu đội du kích
Đẩy lùi cả tiểu đoàn Mỹ-ngụy ác ôn…
Những chiếc nồi giờ ở bảo tàng
Bình dị như bao nồi khác
Hao hao cánh cò cánh vạc
Lòng mẹ ấm nồng chan chứa mênh mông
5.
Gia tài mẹ
Chiếc chõng tre
Thời gian đi qua
Chiến tranh đi qua
Soi bóng mẹ suốt bao thập kỷ
Bao lần vượt cạn quặn đau
Bao lần khóc cười chào đón
Những đứa con rơm rạ
Những ngày ngực lép sữa khô
Những đêm mưa vách xiêu nhà dột
Bom giội pháo rung địch bố ráp địch lùng
Bầy trẻ ôm nhau khóc thét
Mẹ bế đứa nhỏ vào lòng
Quờ đứa lớn bên hông..
Mùa đông
Dưới chiếc chõng tre
Những trã than ấm nồng tình mẹ
Chở che cán bộ nằm vùng
Lớn lên từ chiếc chõng tre
Những đứa con bộ đội
Những đứa con du kích
Những đứa con biệt động…
Không một đứa về
Bên mẹ một ngày xuân
Xin hỏi những làng quê
Xin hỏi những cánh đồng
Có chiếc chõng tre nào
Như chiếc chõng tre đời mẹ, hay không?
Nhà mẹ đạn bom hóa kiếp bao lần
Sau chiến tranh sạch sành sanh của nả
Giật gấu vá vai
Vợ chồng mẹ lội ngược lên non
Mua nhà cũ xuôi bè Thu Bồn về dựng
Có người bảo:
Mắc chi đeo cái cực
Chín con liệt sĩ mà, nhà Chính phủ xây cho
Vợ chồng mẹ cười:
Chúng tôi tự lo
Mình còn khỏe ỷ lại chi Chính phủ
Nhà phụ, cột phụ-đã có tre vườn
Tấm lợp tấm che-đã có bói, tranh ngoài bãi
Nhớ câu chung giàn bầu bí
Vợ chồng mẹ không nhận nhà tình nghĩa
Nhường gia đình liệt sĩ nghèo khó neo đơn
Chín con trai ngả xuống, nào đâu tính thiệt hơn
6.
Nhớ những ngày gian nan
Bộ đội chúng con ăn muối rúc hầm
Mơ ngày Thu Bồn xanh thẳm
Giá như có nhiều nhật thực
Để làm êm dịu mùa hè
Giá như có nhiều suối khe
Cho mẹ mát mẻ
Giá như có nhiều lớp trẻ
Quây quần bên mẹ chuyện xưa…
Chúng con về xóm Rừng thăm mẹ
Gió ngập ngừng nhắn gọi bờ sông
Chừ đường làng đã lợp bê-tông
Nồng nàn thuốc lá xâu hiên nắng
Nhịp sống mẹ
Từng giây yên lặng
Nhịp sống làng
Hối hả xôn xao
Khu vườn mẹ bậc thấp bậc cao
Xin cỏ cây đỡ đần Người khỏi ngả
Lẳng lặng bên bếp xưa lu, vại
Những căn hầm âm vang thời chưa xa
Chín bông huệ nở bừng trong sắc lá
Có phải anh linh các con mẹ về?
Đình làng xưa bảy gốc cây chim chim
Chừ chỉ còn độc gốc chim chim kia im ắng
Phủ rợp làng che chở cháu con
Các anh chết trẻ chết son
Dành tháng dành năm cho mẹ
Trong mắt mẹ con lúc nào cũng bé
Tuổi mẹ trăm năm như cây dó nên trầm
7.
Thời gian
Xin đừng trôi mau
Mẹ bây chừ mây trắng trên đầu
Sóng dâng lên trán
Xin cho mẹ phút giây thanh thản
Tay ngoáy trầu miệng cất lời ru:
Con hời con hỡi hời con
Bây chừ xong việc nước non con nằm
Đời mẹ đời đã trăm năm
Đời con son trẻ trăng rằm sáng gương
Mẹ thương mẹ thương mẹ thương
Ru con mắt mẹ khói sương nhập nhòa
Thời gian
Có thể làm dịu nỗi đau
Không thể nguôi ngoai nỗi nhớ
Chim khách kêu, mệ bồn chồn trông của
Khách gần, khách xa
Chín con trai mẹ không về
Giữa chập chờn tỉnh mê, mẹ gặp
Chín con trai chắc như cột đình
Ùa về ôm chầm, vồ vập xuýt xoa
Tự Chuyển, Tự Cẩn nói giọng miền trong
Hàn Anh, Tự Trịnh pha giọng miền ngoài
Hàn Em, Tự Nự, Tự Lem rặt giọng Quảng Nam
Út Trịnh ngoáy trầu nghe mẹ à ơi:
Con ơi con ngủ cho ngoan
Mai sau khôn lớn lo toan việc đời
Theo gương anh Trỗi, anh Lời
Chị Vân, chị Lý rạng ngời sử xanh…
8.
Mẹ lọ mọ góc bàn thờ
Mân mê từng bát hương, tấm ảnh
Mười hai núm ruột hy sinh
Quả cảm kiên cường trong từng trận đánh
Khắp chiến trường Quảng Đà, Sài Gòn, Tây ninh
Mẹ hình dung ra con cháu của mình
Mẹ lững thững góc sân
Trong hương ổi xưa thấy chồng mình vun gốc
Những chạc, nhánh mòn dấu chân con cháu
Mối tình xưa thấp thoáng hiện về
Mẹ tựa vào hàng tre xưa
Lòng nghe nhoi nhói
Gốc tre già khô ở lại
Những búp măng vội vã lìa đời ?!
Tiếng kẽo kẹt kẽo cà
Cứa sâu miền ký ức
Những đêm dài mẹ cùng chồng thao thức
Đan phên tre che gió lọt quanh nhà
Những đứa con lớn lên
Nhịp tre ru lẩn tiếng gầm đại bác
Gai tre làng, chặn đàu xe bọc thép
Bụi tre gai ôm ấp những căn hầm
Tre gai hóa thành cổ tích dân gian
Thời gian
Có thể làm vơi dịu nỗi đau
Dễ gì nguôi ngoai nỗi nhớ
Những Chuẩn, Sự, Phòng, Tư…
Mấy chú đặc -công-chín-mốt
Quê ngoài Bắc xa lơ xa lắc
Đã hy sinh còn ở lại làng mình
Một góc trời xanh rưng rưng mây trắng
Tuổi già thưởng lẩn thẩn dễ quên
Nhưng mẹ thì rất nhớ
Cuối tháng ba ngày giải phóng Quảng Nam
Cũng là ngày đại lễ
Mẹ giỗ chung con, cháu, rể
Mười hai bát hương nghi ngút cháy trong lòng
Mẹ bần thần so đũa gọi tên
Nhớ từng tiếng cười dáng đi giọng nói
Bát cơm cúng không cõng khoai ghế sắn
Hàng xóm cúi đầu lặng, nghiêm
9.
Mẹ ngồi trên chiếc xe lăn
Thăm cháu, thăm con nghĩa trang liệt sĩ
Trong gần năm nghìn bia mộ
Đội ngũ hôm nay vẫn thẳng hàng
Tóc mẹ bời bời khói hương ngọn cỏ
Cỏ ơi nhang ơi
Xin đan làm tao nôi cho mẹ
Gió ơi hương ơi
Xin làm ngọn nồm nam dịu mùa hè cho mẹ
Những ngôi sao trên mộ bia
Xin làm ngàn ánh sao trời ho mẹ
Soi sáng mát lành dìu dặt lời ru:
Các con vì nước vì non
Tự do độc lập mẹ còn ước chi
Một lời son sắt khắc ghi
Làm người có nghĩa có nghì là hơn
Vẳng bên tai chúng con lời mẹ sắt son:
Chín con trai, một con rể, hai cháu ngoại hy sinh
Nhưng nước nhà độc lập
Nước mất, làm chi nhà còn
Công lao mẹ
Một giọt nước mùa mưa…
10.
Thưa mẹ,
Gạo chợ
Nước sông,
Bộ đội chúng con về xóm Rừng
Làm đường, làm sân, làm nhà cho mẹ
Tre làng làm cuốc, làm khiêng
Gái làng góp công tiếp nước
Lính phòng không- không quân Ba Bảy Năm, Ba Bảy Hai quần quật
Không tính giờ kể giấc
Chỉ tấm lòng chân thật
Mong đời mẹ mỗi ngày
Thêm một bát cơm
Thêm một niềm vui
Thêm một nụ cười
Bên đàn cháu nhỏ
Làng quê qua ngày gian khó
Đời mẹ cũng bớt nhọc nhằn
Vầng trán vết nhăn thời gian
Nỗi đau mất cháu con đọng lại
Bây chừ đường, sân, nhà…
Các công trình đều mang tên Mẹ Thứ
Con cháu mẹ hy sinh hóa thành bất tử
Bên những mộ bia xanh, xanh thẳm xóm Rừng
Thưa mẹ,
Bộ đội chúng con lại về bên mẹ
Tiếp bước các anh gìn giữ sơn hà
Xin làm một hạt phù sa
Cho non ngàn xanh thẳm
Bờ bãi mỡ màu
Đất nước mang hình bóng mẹ
Che chở chúng con suốt cuộc hành trình
Bên mẹ, chúng con thấy mình nhỏ bé
Trong dịu hiền đôi cánh tay sông
Chiến tranh đi qua
Để lại xóm Rừng những bà mẹ góa
Vượt lên nỗi đau
Vượt qua nghiệt ngã
Mẹ là huyền thoại Việt Nam.
LÊ ANH DŨNG
(Ngày 27-7-2002 -
trường ca, Nhà xuất bản QĐND 2003)* Xem tiếp trang 2
Mẹ Thứ anh hùng
…
Mẹ ru
Lũy tre ngăn tăng quân thù
Mẹ ru
Chõng tre chở che căn hầm
Mẹ ru
Võng tre khiêng thương binh
Mẹ ru
Địa đạo pháo gầm chung chiêng
Mẹ ru
Tao nôi bình yên
Mẹ ru
Sâu lắng nỗi miềm nước non
Ngủ đi con, ngủ cho ngoan
Mai ngày nuôi lớn chí khôn diệt thù
Mẹ ru mẹ ru mẹ ru
Trông vời biển thẳm vọng phu hao gầy
Mẹ ru đá hát lời mây
Quân đi như thể rừng cây điệp trùng
Người anh hùng đất anh hùng
Trong vinh quang có não nùng xót xa
Sông Thu Bồn không đỏ nặng phù sa
Mà đỏ nặng máu những người đã khuất
Câu ca nói về sông
Câu ca nói về hơn sáu ngàn liệt sĩ
7.289 Mẹ Việt Nam anh hùng đất Quảng
Lấp lánh ngôi sao trước ngực
Sau tấm huân chương con gặp
Mẹ Thứ- Điện Bàn
12 con cháu hy sinh
Nỗi đau xé ruột xé gan
Tột cùng tận hiến
Tột cùng vì nước xả thân
Biển cả bao la
Mênh mang sao bằng mắt mẹ
Chất ngất nhớ mong
Thăm thẳm đợi chờ
Khắc khoải niềm thương nỗi nhớ
Cháu con mẹ là mặt trăng, mặt trời
Mặt trăng, mặt trời của mẹ lặn ngày đất nước đoàn viên
Quảng Nam trung dũng kiên cường
Đất nước tạc tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng
Nguyên mẫu hình hài mẹ Thứ
Ngàn đời vinh danh
Một mình mẹ gánh
Gánh cực đắp lên non
Gánh buồn trải ra biển
Gánh khổ gánh đau tê diếng
Không bằng mẹ gánh
Nỗi đợi chờ đằng đẵng cháu con
Con cháu mẹ mất đi non sông bình yên
Việt Nam ngời lên tự do độc lập
Hồn các anh, chị hóa thành mây thành khói
Đất đai cây cỏ này bàng bạc bóng anh linh
Mẹ Việt Nam anh hùng- quần thể tượng đài nghĩa tình
Dân tộc tôn vinh đời đời ghi khắc
Tam Kỳ- núm ruột ba miền Nam-Trung-Bắc
Núi Cấm-quần thể tượng đài mẹ như lũy như thành
Lồng lộng biển Đông
Kính thưa mẹ đầu nguồn cuối sông
Từ Bắc chí Nam người còn kẻ mất
Tâm linh xin hội tụ về
Tượng đài mẹ giữa phố giữa quê
Giữa biển giữa sông giữa đồi giữa núi
Cánh tay choàng chở che
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Mẹ bình thản nén nỗi đau chịu đựng
Sáng một vầng trăng bao dung
Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng
Hình tượng Việt Nam thủy chung son sắt
Hình khối thấp cao ngân nga cung bậc
Dáng mẹ hiền ngời ngợi biern trời lồng lộng núi sông
Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng
Cội nguồn nước non
Cội nguồn dân tộc
Trước Người
Con nghiêng mình tôn vinh tưởng nhớ
Chiêm nghiệm được mất ở đời
Chiêm nghiệm lẽ sống Việt Nam
Mẹ Quảng Nam ơi, mẹ Việt Nam ơi
Nhờ Người
Đất đai núi sông này thiên thu bền vững
Nhờ Người
Nuôi dưỡng cháu con lớn lên cùng lịch sử
Nhờ Người
Chở che cháu con theo đường nhân loại đang đi
LÊ ANH DŨNG
(Trích chương 6 trường ca Dòng sông di sản
Nhà xuất bản QĐND 2009)
Mây trắng về trời
(Kính dâng hương hồn Mẹ Thứ)
Mẹ ơi, mây trắng về trời
Thơ con chưa nói hết lời mẹ thương
Bao năm mỏi mắt sân vườn
Bao lần ngất lịm, đoạn trường vì con
Một nhà đông tựa núi non
Chừ một mình mẹ mỏi mòn chờ mong
Trời cao đất rộng mênh mông
Mười hai con cháu đi không thấy về
Lòng mẹ chừ thêm tái tê
Chị Trị con cả-lết lê chân gầy…
Hồn mẹ vương vấn mỗi ngày
Khói hương ngọn cỏ dàu dàu bên con
Nước mất, làm sao nhà còn
Con cháu mất, được giang sơn vững bền
Ơi lòng mẹ Thứ mông mênh
Trán dâng mây trắng thênh thênh cõi trời
LÊ ANH DŨNG
(Đêm 11-12-2010)
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận