Phóng to |
Cây bàng cổ thụ tại Long Hưng (Tiền Giang) này là nơi vào sáng 23-11-1940 nghĩa quân đã trương lên lá cờ đỏ sao vàng. Phía sau là đình Long Hưng, nay đã được sửa sang lại - Ảnh: Vân Trường |
Kỳ 1: Tổn thất trước ngày khởi nghĩa
Những sử liệu mới cho chúng ta cái nhìn mới về cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23-11-1940.
“Xô viết công nông” hay "cộng hòa dân chủ"?
Quốc hiệu “Việt Nam dân chủ cộng hòa” ra đời ở miền Nam từ năm 1940 là một chuyện mới. Chuyện này chỉ được đề cập đến gần đây, sau khi các nhà nghiên cứu tìm thấy những “chứng cứ” từ các kho lưu trữ.
...Đêm 29-9-1940, tại khắp các khu phố ở Chợ Lớn đã xuất hiện những tờ truyền đơn dưới dạng “thư ngỏ gửi anh chị em Hoa kiều” của Thành ủy Saigon - Chợ Lớn. Thư ngỏ kêu gọi đồng bào người Hoa hãy sát cánh cùng Đảng Cộng sản Đông Dương để đứng lên chống lại thực dân Pháp và phát xít Nhật, trong đó có đoạn:
... Anh chị em hãy mau mau đoàn kết cùng chúng tôi dũng cảm tiến lên!Khẩu hiệu của chúng tôi là:Các dân tộc nhược tiểu châu Á hãy liên hiệp lại!Đả đảo đế quốc Pháp phản động đầu hàng (phát xít Đức)!Thành lập Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa!
Nhà nghiên cứu Trần Giang, người nhiều năm công tác ở Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương, đã phát hiện tài liệu này trong một kho lưu trữ tại Saigon. “Chứng cứ” này phù hợp với một tài liệu khác được lưu trữ tại Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương. Đó là thông báo của Xứ ủy Nam kỳ ngày 3-10-1940: “Phải giải thích cho nhân dân hiểu rằng sau khi đánh thắng thực dân Pháp, chúng ta sẽ thành lập một chính phủ dân chủ cộng hòa”. Với những tư liệu này, nhà nghiên cứu Trần Giang mới đưa vấn đề “Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1940" vào công trình nghiên cứu cấp nhà nước năm 2001. Còn trong cuốn sách về Nam kỳ khởi nghĩa của mình năm 1996, ông "chưa dám đề cập đến”.
Cần lưu ý rằng vào thời điểm tháng chín, tháng 10 - 1940, ở miền Nam lúc đó không có ủy viên trung ương nào. Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ còn duy nhất đồng chí Phan Đăng Lưu là chưa bị bắt, nhưng lúc đó đồng chí Phan Đăng Lưu đã ra Bắc. Toàn bộ việc lãnh đạo và triển khai khởi nghĩa đều do Xứ ủy Nam kỳ quyết định. Nhưng thật ra những quyết định của Xứ ủy Nam kỳ về việc khởi nghĩa và thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều dựa vào nghị quyết hội nghị trung ương tháng 11-1939. Trong nghị quyết này, trung ương đã xác định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, lập mặt trận đoàn kết với tất cả tầng lớp, giai cấp, dân tộc, đảng phái nhằm đánh đổ thực dân Pháp và giải phóng đất nước. Trung ương cũng chủ trương không lập chính phủ “Xô viết công nông” (như kiểu Xô viết Nghệ Tĩnh), mà phải lập “Chính phủ liên bang cộng hòa dân chủ Đông Dương”.
Nhưng sau nhiều hội nghị bàn thảo kế hoạch khởi nghĩa của Xứ ủy Nam kỳ, chủ trương lập “Chính phủ liên bang cộng hòa dân chủ Đông Dương" không còn được nhắc đến nữa, mà thay vào đó là "Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa”.
Đáng lưu ý, theo nhà nghiên cứu Trần Giang, trước ngày khởi nghĩa, Xứ ủy Nam kỳ đã đề ra một danh sách những người trong chính phủ lâm thời. Danh sách này không còn văn bản lưu lại, nhưng theo các nhân chứng còn sống, “nội các” đó có Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tài (tức sư Thiện Chiếu), Võ Công Tồn (tư sản, địa chủ yêu nước)...
Đặc biệt, người đứng đầu “nội các 1940” chính là Nguyễn Ái Quốc. Dù lúc đó đồng chí Nguyễn Ái Quốc không có mặt ở Nam kỳ và một thời gian dài không hoạt động trong nước, nhưng tất cả mọi người đều tôn sùng và chọn đồng chí Nguyễn Ái Quốc làm tổng thống.
Chi tiết nói trên được một trong những nhân chứng của Nam kỳ khởi nghĩa hiện còn sống - ông Nguyễn Văn Chí - xác nhận. Ông Nguyễn Văn Chí (nguyên phó chủ nhiệm ủy ban Kiểm tra trung ương) nhớ lại: “Lúc đó tôi có dự hội nghị bàn về khởi nghĩa giành chính quyền ở Nam bộ. Hội nghị xác định là chúng ta phải có “nội các”. Lần đầu tiên tôi nghe từ “nội các”. Giành chính quyền xong phải có "nội các” để điều hành đất nước. Người đứng đầu "nội các" này là Nguyễn Ái Quốc".
Nhưng có phải tất cả những điều đó chỉ nằm trong nghị quyết hay trong các cuộc bàn thảo trước ngày khởi nghĩa? Không! Ông Lê Minh Đức, phó chủ tịch Hội Khoa học lịch sử tỉnh Tiền Giang, khẳng định: “Sáng sớm 23-11-1940, cùng với lá cờ đỏ sao vàng, quốc hiệu “Việt Nam dân chủ cộng hòa quốc” đã được trương lên trân trọng tại đình Long Hưng. Và cùng với quốc hiệu đó, thiết chế dân chủ cộng hòa cũng đã được thể nghiệm ở Mỹ Tho trong 49 ngày”.
Nền cộng hòa 49 ngày
Nếu trong khởi nghĩa Nam kỳ, thành phố Saigon - Chợ Lớn không hề “động binh”, ngược lại, tỉnh Mỹ Tho là nơi giành được chính quyền với qui mô rộng nhất và giữ được chính quyền lâu nhất.
Năm 2005, tại Mỹ Tho có một cuộc hội thảo khá lớn về Nam kỳ khởi nghĩa, với sự tham dự của lãnh đạo Viện Lịch sử Đảng, Viện Lịch sử quân sự, các nhà sử học... Một chủ đề quan trọng được đưa ra mổ xẻ tại hội thảo này là: thể chế dân chủ cộng hòa đã ra đời và được thực thi tại Mỹ Tho trong cuộc khởi nghĩa Nam kỳ. Nhà nghiên cứu Lê Minh Đức thuật lại diễn biến đó như sau:
...Đêm 22 rạng ngày 23-11-1940, cuộc khởi nghĩa bùng nổ. Chỉ trong ba ngày, gần như đồng loạt, nghĩa quân đã giành quyền làm chủ 70 xã trong tổng số 114 xã. Ngay sau khi chiếm nhà việc xã Long Hưng, Ủy ban khởi nghĩa quyết định thành lập chính quyền nhân dân cách mạng tỉnh Mỹ Tho, đặt trụ sở tại đình Long Hưng, quận Châu Thành. Ngay tại đây, trong sân đình Long Hưng, lá cờ đỏ sao vàng được treo trên chót cây bàng và cổng đình đã trở thành cổng chào với băngrôn đỏ, nổi bật hàng chữ “Việt Nam dân chủ cộng hòa quốc”. Chính quyền cách mạng tỉnh đã tổ chức một cuộc mittinh lớn, có hơn 3.000 người dự để ra mắt nhân dân...
Cùng với việc ra đời chính quyền cách mạng, tòa án nhân dân cũng đã được thành lập ở cấp tỉnh và nhiều địa phương. Tòa án được lập ra nhằm hạn chế tình trạng manh động, tùy tiện của nghĩa quân và đồng bào đối với hội tề gian ác hoặc cai đội lính đồn ngoan cố bắn vào những người khởi nghĩa trước đó. Trong các phiên xử đều có người biện hộ đàng hoàng và "luật sư" duy nhất là bà Nguyễn Thị Thập (sau này trở thành phó chủ tịch Quốc hội). Không có chuyện đưa ra xét xử hoặc đấu tố địa chủ.
Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Thập, các phiên xử của tòa án tỉnh nói trên chỉ xử cảnh cáo hương quản Sâm và cai Trí, còn lại đều răn đe, khuyên nhủ rồi khoan hồng. Những người được tha bổng, trước khi ra về có thề sau này sẽ không làm gì chống lại cách mạng, nếu sai lời sẽ bị quan lớn thượng móc mắt (vì tòa án đặt tại đình Long Hưng, còn gọi là miếu Tả quân Lê Văn Duyệt). Một hành động ý nghĩa, gây dấu ấn sâu đậm trong lòng nhân dân, theo nhà nghiên cứu Lê Minh Đức, là việc khui kho thóc và lấy ruộng đất của một vài địa chủ “có máu mặt” để chia cho dân nghèo và tá điền. Ngoài ra, chính quyền mới còn tiến hành hủy bỏ tất cả sổ sách, khế ước, giao kèo bất công của một số địa chủ, hội tề đối với nhân dân; xóa bỏ tất cả thứ thuế vô lý mà thực dân Pháp áp đặt lúc bấy giờ.
Có mặt tại cuộc hội thảo nói trên, tiến sĩ Hồ Thị Tố Lương cũng trình bày dữ liệu nghiên cứu của mình giống như nhà nghiên cứu Lê Minh Đức trình bày. Tiến sĩ Tố Lương nhấn mạnh: “Ở Mỹ Tho, không chỉ thành lập được chính quyền cách mạng mà chính quyền ấy còn tồn tại lâu nhất (49 ngày), thực thi được thể chế dân chủ cộng hòa”.
Còn tiến sĩ Nguyễn Trọng Phúc, viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, đã gút lại vấn đề này khi tổng kết hội thảo như sau: “Trong hội thảo, các tham luận đã thống nhất rằng trong khởi nghĩa Nam kỳ, ở Mỹ Tho đã thực thi thiết chế Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chúng ta đã tìm được những tư liệu rất quí, khẳng định thiết chế dân chủ cộng hòa đã được thực thi. Có đại biểu đã khẳng định về việc thành lập nội các, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Với tư liệu đó, chúng ta có thể đưa vào lịch sử chính thức được”.
Như vậy, hội thảo năm 2005 tại Mỹ Tho đã làm sáng tỏ phần nào một nội dung mới và quan trọng của cuộc khởi nghĩa Nam kỳ.
Cuộc khởi nghĩa lịch sử đó, cuối cùng, đã bị dìm trong biển máu... Nhưng, như nhận định của GS Trần Văn Giàu, “Khởi nghĩa Nam kỳ 1940 mặc dù thất bại, nhưng nó đã để lại cho toàn thể dân tộc ta một vật báu tiêu biểu cho truyền thống đấu tranh cách mạng anh dũng, cho hi vọng đầy tràn của nhân dân vào tương lai xán lạn của dân tộc. Đó là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh - lá cờ của cuộc khởi nghĩa Nam kỳ và sau này là quốc kỳ Việt Nam”.
oOo
Bây giờ, mỗi khi nhìn lá cờ đỏ sao vàng, bạn có thể sẽ tự hỏi: Lá cờ đó ra đời như thế nào? Ở đâu? Ai là tác giả? Tại sao đỏ? Tại sao vàng? Tại sao năm cánh sao?...Những câu hỏi tưởng chừng đơn giản, nhưng không hẳn vậy.
Kỳ 3: Báu vật 23-11-1940
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận