
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng - Ảnh: GIA HÂN
Sáng 7-11, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng thừa ủy quyền của Thủ tướng trình bày tờ trình trước Quốc hội về dự án Luật Quy hoạch (sửa đổi) và việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030.
Mục tiêu GDP bình quân thời kỳ 2021 - 2030 đạt trên 8%/năm
Theo ông Thắng, lần điều chỉnh này sẽ điều chỉnh quan điểm và mục tiêu phát triển. Trong đó phải có tư duy và tầm nhìn chiến lược, dài hạn, chủ động kiến tạo, đột phá phát triển; lấy phát triển để duy trì ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển.
Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh làm động lực chính.
Đồng thời cải cách, nâng cao chất lượng thể chế và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả phải thực sự trở thành đột phá để thúc đẩy phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Phát triển nhanh, hài hòa các khu vực kinh tế và các loại hình doanh nghiệp; kinh tế tư nhân là bộ phận quan trọng của kinh tế quốc gia và là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế.
Cụ thể về mục tiêu đến năm 2030, Chính phủ đề nghị điều chỉnh, bổ sung một số nội hàm trong mục tiêu tổng quát theo hướng phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Song song đó, xác lập mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính; mô hình tổ chức không gian phát triển quốc gia hiệu quả, thống nhất, bền vững, các vùng động lực, hành lang kinh tế, cực tăng trưởng phát huy vai trò đi đầu, dẫn dắt trong phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Có mạng lưới kết cấu hạ tầng cơ bản đồng bộ, hiện đại; bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế...
Chính phủ cũng đề xuất điều chỉnh một số chỉ tiêu chủ yếu theo hướng phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân đạt trên 8,0%/năm thời kỳ 2021-2030; trong đó giai đoạn 2026-2030 đạt từ 10%/năm trở lên.
Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 8.500 USD. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 8,5%/năm giai đoạn 2026 - 2030.
Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt trên 55%. Chỉ số phát triển con người (HDI) đạt khoảng 0,78.
Giai đoạn 2031-2050, phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 7-7,5%/năm. GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2050 đạt khoảng 38.000 USD. Chỉ số phát triển con người đạt trên 0,85.
Tổ chức không gian cả nước có 6 vùng kinh tế - xã hội

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi - Ảnh: GIA HÂN
Tờ trình của Chính phủ cũng đề xuất tổ chức không gian phát triển đất nước thành 6 vùng kinh tế - xã hội; xây dựng mô hình tổ chức, cơ chế điều phối vùng để thực hiện liên kết nội vùng và thúc đẩy liên kết giữa các vùng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực.
Theo đó, Vùng Trung du và miền núi phía Bắc gồm 9 tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La.
Vùng Đồng bằng sông Hồng gồm 6 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh, Quảng Ninh.
Vùng Bắc Trung Bộ gồm 5 tỉnh, thành phố: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Huế;
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên gồm 6 tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Lâm Đồng.
Vùng Đông Nam Bộ gồm 3 tỉnh, thành phố: TP.HCM, Đồng Nai, Tây Ninh;
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long gồm 5 tỉnh, thành phố: Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Cà Mau.
Mặt khác, điều chỉnh, mở rộng phạm vi và bổ sung một số nội hàm trong định hướng phát triển của 4 vùng động lực quốc gia.
Điều chỉnh, mở rộng phạm vi của 4 vùng động lực quốc gia, bao gồm Vùng động lực phía Bắc, Vùng động lực phía Nam, Vùng động lực miền Trung, Vùng động lực Đồng bằng sông Cửu Long ra khu vực phụ cận, là các địa bàn có mạng lưới kết cấu hạ tầng đã và đang được đầu tư, bố trí các khu, cụm công nghiệp, các đô thị, khu đô thị...
Làm rõ hơn tác động, ảnh hưởng của phương án phân vùng mới
Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho hay về điều chỉnh phân vùng và định hướng phát triển vùng kinh tế - xã hội, ủy ban nhận thấy việc phân vùng kinh tế - xã hội cơ bản vẫn giữ nguyên số lượng là 6 vùng.
Tuy nhiên kết cấu, phạm vi từng vùng có sự thay đổi lớn về số lượng đơn vị hành chính cấp tỉnh, quy mô về diện tích và dân số do ảnh hưởng của việc sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Trong đó vùng Bắc Trung Bộ và vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên là 2 vùng có sự thay đổi lớn so với trước đây.
Do đó ủy ban đề nghị làm rõ hơn phương án phân vùng mới sẽ tác động, ảnh hưởng như thế nào đến định hướng phát triển của từng vùng; đánh giá tính liên kết trong nội tại từng vùng.
Bên cạnh đó đề nghị thuyết minh, làm rõ hơn tính đặc thù, vị trí địa lý và nhiệm vụ, điều kiện kinh tế - xã hội của từng vùng nhằm phát huy tối đa tiềm năng và khai thác hiệu quả lợi thế sẵn có; khắc phục được các tồn tại, hạn chế của từng vùng và liên kết vùng để thúc đẩy phát triển bền vững của cả quốc gia.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận