06/01/2017 10:42 GMT+7

Sống sót giữa vòng vây quân thù

QUỐC VIỆT
QUỐC VIỆT

TTO - Ông gạt nước mắt, bặm môi để khỏi bật khóc vì tôi đã gợi lại ký ức đẫm máu của người lính tình nguyện năm xưa.

Người lính tình nguyện Huỳnh Văn Châu bây giờ - Ảnh: Quốc Việt
Người lính tình nguyện Huỳnh Văn Châu bây giờ - Ảnh: Quốc Việt

40 anh em cùng lên tuyến đầu nhưng chỉ có một mình tôi còn sống sót. 39 người kia phải nằm lại.

Lý do trận đánh kết thúc không chỉ vì quân Pol Pot đông hơn gấp nhiều lần, mà vì kẻ thù hầu như chỉ sử dụng súng chống tăng để tấn công

Anh Huỳnh Văn Châu

40 chiến sĩ trẻ Việt Nam trong đại đội của ông cùng dấn thân vào một trận đánh ở Campuchia, chỉ duy nhất một mình ông sống sót. Đến giờ, nhiều đêm ông vẫn nằm mơ nghe dồn dập tiếng đạn B40 xé tai của kẻ thù và tiếng đồng đội thét vang “chiến đấu đến cùng”...

Cuộc hành quân khẩn cấp

Đó là buổi sáng bi hùng ngày 29-11-1986. Đêm trước trận đánh đẫm máu này, trung đoàn 4, sư đoàn 5 của người lính Huỳnh Văn Châu đang ở mặt trận Battamboong được lệnh hành quân sang Siem Reap, hỗ trợ sư đoàn 302 đang bao vây quân Pol Pot.

Chiến sĩ Châu ở đại đội 13, tiểu đoàn 3 cơ động khẩn cấp đến tối 28 thì đến sông Loong Vien. 4g50 sáng 29, đại đội được lệnh bí mật qua sông. Toàn bộ quân số đại đội ông lúc này có 52 người, gồm cả sĩ quan tiểu đoàn phó xuống chỉ đạo hành binh trực tiếp.

“Mới tờ mờ sáng, chiến sĩ bọc hậu cuối cùng đã qua được bờ bên kia. Trung đội 8 với 12 lính được lệnh ém quân chốt giữ bờ sông để giữ không cho quân Khmer Đỏ cài mìn trên đường đi chuyển của đơn vị. 40 anh em còn lại của hai trung đội 7 và 9 tiếp tục hành quân áp sát trận địa.

Chúng tôi vượt qua rặng tre gần bờ sông, đi tiếp khoảng 500m thì tiến vào cánh đồng lúa bỏ hoang. Địa hình bằng phẳng, trống trải, tầm quan sát rõ ràng.

Nhìn thấy bóng lính Khmer Đỏ nhấp nhô ở phía trước, đơn vị được lệnh dừng lại, dàn quân dọc theo một bờ ruộng đất ngắn, lúp xúp cao chưa tới đầu gối. Chúng tôi dàn quân hình cánh cung theo thế chặn đường rút lui của kẻ thù” - ông Châu nhớ lại.

Ngoài súng AK cá nhân, đơn vị chỉ có hỏa lực là một khẩu cối 62 li và một khẩu đại liên. Ông Châu lúc ấy là xạ thủ đại liên do có sức khỏe tốt và đã trải thực chiến qua bốn trận đánh lớn dù mới sang chiến trường Campuchia từ giữa tháng 6-1986.

Ngược lại, phía Pol Pot trận này áp đảo hẳn về hỏa lực B40, B41 và B10 cỡ nòng 82 li do Trung Quốc viện trợ có sức hủy diệt tương tự hỏa lực DKZ của quân đội Việt Nam.

Ông Châu kể không hiểu Trung Quốc viện trợ vũ khí cho Pol Pot nhiều đến mức nào mà có những trận đánh, kẻ thù sử dụng hỏa lực hạng nặng này còn nhiều hơn cả súng bộ binh AK và gây thương vong nặng nề cho quân ta.

Trên trận địa, Khmer Đỏ đã bị quân tình nguyện Việt Nam bao vây các hướng dù lực lượng của chúng tương đương cấp sư đoàn. Sở dĩ đại đội 13 chỉ có 40 người án ngự chỗ này vì đây là khu vực trống trải. Mọi người không nghĩ kẻ thù dám mở đường máu ở hướng bằng phẳng này.

“Mặt trời vừa mới ửng lên, chúng tôi thấy vài bóng lính Pol Pot nhưng sau đó cứ đông dần, đông dần, phải đến hàng trăm quân, nhiều hơn cả chục lần chúng tôi. Chúng đủ lực lượng chia qua hai phía rồi bọc hậu phía sau, thành thế bao vây lại” - Châu kể đồng đội anh đều bất ngờ vì cuộc hành quân bao vây lại rơi vào thế bị bao vây do quân số quá chênh lệch.

Pol Pot quyết tâm mở đường máu hướng này, do biết quân tình nguyện Việt Nam quá ít ỏi.

Tượng đài quân tình nguyện VN tại TP Kampot, Campuchia - Ảnh: Tiến Trình
Tượng đài quân tình nguyện VN tại TP Kampot, Campuchia - Ảnh: Tiến Trình

39 người nằm lại

Chỉ vài phút sau, kẻ thù đã tràn ngập. Châu siết cò khẩu đại liên K57 nhưng viên đạn đầu lại không nổ khiến khẩu đại liên bị kẹt. Xạ thủ dự bị tên Huy nhào lên, phụ tháo viên đạn lép bị kẹt của khẩu đại liên thì lập tức tiếng B40, B41, B10 từ phía kẻ thù bên kia rền lên.

Bờ ruộng nhỏ xíu giữa đồng nhanh chóng bị hỏa lực này phá nát. Xạ thủ Huy vừa bị trúng đạn AK vào ngực vừa bị mảnh đạn B40 ghim khắp người, anh vẫn ôm khẩu súng. Châu cũng bị nhiều mảnh đạn, máu chảy đỏ người nhưng anh vẫn cố gắng di chuyển.

Anh cố gắng kéo khẩu đại liên ra chỗ khác để bắn tiếp. Bởi vị trí cũ đã bị Khmer Đỏ phát hiện, nếu anh cứ nằm tại chỗ mà bắn chắc chắn bị hỏa lực kẻ thù hủy diệt.

Chỉ sau ít phút, trận địa 40 người của đại đội 13 đã bị các loại đạn chống tăng, phá lô cốt của kẻ thù cày tung. Nhiều chiến sĩ hi sinh ngay tại chỗ, một số chiến sĩ bị thương cố bắn trả rồi kiệt sức dần.

Ở vị trí chỉ huy, chiến sĩ thông tin Đỗ Hồng Hà đeo máy PRC 25 cùng tiểu đoàn phó Phan Duy Thành, đại đội trưởng Đức Thụ cố gắng gọi sang tiểu đoàn 1 xin chi viện nhưng họ chưa dứt lời thì bị trúng đạn B40. Tất cả đều hi sinh.

Đơn vị bạn gần đó cũng không thể chi viện pháo binh được vì chưa biết chính xác tọa độ, sợ bắn lẫn vào chính quân mình...

Nhớ lại trận đánh này, ông Châu xúc động: “40 anh em cùng lên tuyến đầu nhưng chỉ có một mình tôi còn sống sót. 39 người kia phải nằm lại. Lý do trận đánh kết thúc không chỉ vì quân Pol Pot đông hơn gấp nhiều lần, mà vì kẻ thù hầu như chỉ sử dụng súng chống tăng để tấn công. Hàng chục quả đạn chống tăng bắn thẳng vào trận địa chỉ có 40 người”.

Trong lúc bị thương nặng gục xuống, ông Châu thấy kẻ thù tiến đến dùng AK bắn thẳng vào đầu từng người lính Việt dù còn bị thương hay đã chết. Đến giờ ông Châu vẫn không hiểu điều kỳ diệu nào khiến kẻ thù lại “bỏ sót” mình dù ông vẫn đang nằm ở trận địa...

Khi trời sụp tối, ông Châu tỉnh lại tìm về trung đoàn của mình. Ngày hôm sau dù thương tích vẫn còn đỏ máu, ông vẫn tình nguyện dẫn anh em đi tìm đồng đội. 39 thi hài lính Việt Nam bị quân Pol Pot chất thành đống, gài mìn bên dưới, nhưng đoàn đi tìm đã có kinh nghiệm với kiểu bẫy xác man rợ này. Không ai có thể cầm được nước mắt.

Trận địa như một cánh đồng vừa bị cày xới sau mưa đạn súng chống tăng. Máu chiến sĩ đỏ ngập khắp nơi. Không một liệt sĩ nào được nhận dạng gương mặt bởi các phát đạn bắn bồi thêm quá gần của kẻ thù.

Sau trận đánh ấy, chỉ huy sư đoàn 5 xuống tận bệnh xá động viên và thăm hỏi thương binh Huỳnh Văn Châu, người lính duy nhất sống sót của đại đội 13: “Anh cứ nói thật lòng muốn về đâu, ra khỏi vị trí tác chiến hay giải ngũ? Anh xứng đáng được hưởng điều đó”.

Thế nhưng anh Châu đã cương quyết xin ở lại chiến đấu. Ông trả lời rằng chẳng lẽ khi đồng đội ông hi sinh như thế, ông lại bỏ về?

Sau ngày đẫm máu đó và khi vết thương được chữa lành, ông Châu được đề bạt làm khẩu đội trưởng cối 62, tái lập lại chính đơn vị chiến đấu cũ. Mỗi lần ra trận, ông phải quấn băng trên đầu vì tiếng đạn pháo quá lớn làm tái phát vết thương cũ.

Ông đã chiến đấu cho đến ngày quân đội Việt Nam rút hết quân về nước. Giờ đây khi nhắc lại cuộc chiến không thể nào quên này, ông Châu nói rằng: “Đến giờ, nhiều đêm tôi vẫn nằm mơ nghe tiếng đồng đội gọi mình và nhìn thấy hình ảnh chết chóc của họ”.

______________________________________

Kỳ tới: Cái chết của người lính chữ thập đỏ

>> Kỳ 1: Căn cứ Suối Râm
QUỐC VIỆT
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên