06/06/2019 16:46 GMT+7

Phòng ngừa bệnh hậu sản sau sinh

Nguồn: Trang thông tin Y học thường thức
Nguồn: Trang thông tin Y học thường thức

Theo dân gian, người ta coi hậu sản là thời kỳ 3 tháng sau khi sinh còn y học hiện đại quan niệm hậu sản là giai đoạn 6 tuần kể từ ngày sinh.

Phòng ngừa bệnh hậu sản sau sinh - Ảnh 1.

Ảnh minh họa. Nguồn: independent.co.uk

Việc em bé chào đời là một niềm vui lớn cho cả gia đình nhưng nó cũng gây không ít những biến động lớn về cả thể chất lẫn tâm lý đối với người mẹ. Sau khi sinh, chị em gặp rất nhiều khó khăn trong việc di chuyển cũng như kiêng cữ để phòng tránh các vấn đề về hậu sản.

Theo dân gian, người ta coi hậu sản là thời kỳ 3 tháng sau khi sinh còn y học hiện đại quan niệm hậu sản là giai đoạn 6 tuần (42 ngày) kể từ ngày sinh.

Sở dĩ có thời gian như vậy vì khi mang thai, các cơ quan sinh dục của người phụ nữ phát triển để thích nghi với việc có em bé. 6 tuần sau khi sinh là khoảng thời gian các cơ quan sinh dục (ngoại trừ vú vẫn phát triển để nuôi con) dần trở lại bình thường như trước khi sinh.

Như vậy bất kỳ phụ nữ nào sau khi sinh cũng bước vào thời kỳ hậu sản. Các bà mẹ cần được chăm sóc đặc biệt để tránh một số bệnh lý được gọi là bệnh hậu sản.

Những vấn đề có thể gặp trong thời gian hậu sản

Băng huyết

Băng huyết sau khi sinh là tai biến sản khoa hay gặp nhất (nguy cơ cao nhất trong 24 giờ sau khi sinh) và là một nguyên nhân chính gây tử vong cho sản phụ.

Triệu chứng chung của các trường hợp này là chảy máu nhiều ngay sau khi đẻ thai và sổ nhau. Khi máu ra nhiều, sản phụ có thể bị choáng, xanh nhợt, mạch nhanh, huyết áp hạ, khát nước, chân tay lạnh, vã mồ hôi,… Tùy từng nguyên nhân (đờ tử cung, sót nhau, rách đường sinh dục…) mà có thêm những triệu chứng đặc trưng khác. Phải có biện pháp can thiệp kịp thời và thích hợp cho từng trường hợp.

Một số nguyên nhân dẫn đến chảy máu sau sinh:

- Cơ tử cung yếu do đẻ nhiều lần, tử cung có sẹo mổ, u xơ tử cung, tử cung dị dạng; tử cung bị căng giãn quá mức vì đa thai, đa ối, thai to.

- Chuyển dạ kéo dài; nhiễm khuẩn ối.

- Sót nhau trong buồng tử cung.

- Sản phụ suy nhược, thiếu máu, cao huyết áp, nhiễm độc thai nghén.

- Tiền sử sảy, nạo, hút thai nhiều lần.

- Từng bị sót nhau viêm niêm mạc tử cung.

- Sau đẻ non, đẻ thai lưu.

- Đẻ nhanh, đặc biệt ở tư thế đứng.

- Dây nhau ngắn, cuốn cổ nhiều vòng; lấy nhau không đúng quy cách.

- Đỡ đẻ không đúng cách, cổ tử cung chưa mở hết mà sản phụ đã rặn.

Băng huyết là một tai biến hết sức nguy hiểm, nếu chị em thấy mình ra máu nhiều sau khi sinh hay gặp các triệu chứng trên, cần thông báo ngay cho bác sĩ biết.

Cơn co tử cung

Vì trong tử cung vẫn còn máu cục, sản dịch,… nên sẽ có những cơn co tử cung, tử cung sẽ co bóp mạnh để tống các chất dư thừa ra ngoài gây nên những cơn đau tử cung. Ở người sinh con so thường ít gặp vì chất lượng tử cung còn tốt. Tử cung sẽ co bóp mạnh hơn ở những người sinh con rạ, càng đẻ nhiều lần sau càng đau nhiều hơn lần trước vì chất lượng cơ tử cung yếu dần, tử cung càng cần phải co bóp mạnh hơn những lần trước để đẩy máu cục và sản dịch ra ngoài. Đôi khi các cơn đau tử cung này cần dùng thuốc giảm đau vì cường độ quá mạnh, nếu có thể chịu đựng được thì cũng không nên cố hạn chế các cơn đau bằng thuốc vì đây là những cơ co tự nhiên và có lợi.

Ở một số sản phụ, các cơn đau này có thể kéo dài nhiều ngày. Các cơn đau tử cung đặc biệt cũng có thể gặp khi cho trẻ bú, do oxytocin được giải phóng ra nhiều. Thông thường các cơn đau giảm dần về cường độ và sản phụ cảm thấy dễ chịu hơn vào ngày thứ 3 sau đẻ.

Nhiễm khuẩn hậu sản

Nhiễm khuẩn hậu sản là nhiễm khuẩn xảy ra ở sản phụ sau khi sinh mà khởi điểm là từ đường sinh dục (âm đạo, cổ tử cung, tử cung vùng nhau bám). Vi khuẩn gây bệnh có thể từ cơ thể sản phụ, người xung quanh, dụng cụ đỡ đẻ, thủ thuật mổ lấy thai,…

Những yếu tố thuận lợi cho sự phát triển của vi khuẩn: Dinh dưỡng kém, thiếu máu, nhiễm độc thai nghén, ối vỡ non, vỡ sớm, chuyển dạ kéo dài, ứ sản dịch, đã bị viêm âm đạo, viêm cổ tử cung từ trước,…

Triệu chứng ban đầu có thể chỉ là sốt nhẹ (>38 độ C), đau tấy, mưng mủ chỗ bị viêm, sản dịch hôi, mệt mỏi, ăn uống kém,… Nếu nặng, sản phụ có thể sốt rất cao, rét run, choáng, hạ huyết áp.

Có rất nhiều hình thái nhiễm khuẩn hậu sản như: Nhiễm khuẩn tầng sinh môn, âm hộ, âm đạo; viêm niêm mạc tử cung; viêm phần phụ và dây chằng rộng; viêm phúc mạc, tiểu khung; viêm phúc mạc toàn bộ; nhiễm khuẩn huyết; viêm tĩnh mạch. Mỗi hình thái sẽ có những biểu hiện đặc trưng riêng tuy nhiên nếu bạn bị sốt trong  thời kỳ này thì phải đặc biệt lưu ý vì đây là biểu hiện ban đầu của mọi hình thái nhiễm khuẩn hậu sản.

Sản dịch

Là dịch tử cung và đường sinh dục chảy ra ngoài trong những ngày đầu tiên của thời kỳ hậu sản. Sản dịch bao gồm máu cục và máu loãng chảy từ niêm mạc tử cung nhất là từ vùng nhau bám, các mảnh ngoại sản mạc, các sản bào, các tế bào biểu mô cổ tử cung và âm đạo bị thoái hóa và bong ra. Trong 3 ngày đầu, sản dịch gồm toàn máu loãng và máu cục nhỏ nên có màu đỏ sẫm. Từ ngày thứ 4 đến 8, sản dịch loãng hơn, chỉ còn là một chất nhầy có lẫn ít máu nên có màu lờ lờ máu cá. Từ ngày 9 trở đi sản dịch không có máu chỉ là một dịch trong hoặc trắng chứa lượng lớn bạch cầu và mô màng vỏ bị hoại tử. Hiện tượng này kéo dài 2-3 tuần nữa.

Bình thường sản dịch không bao giờ có mủ nhưng khi chảy qua âm đạo, âm hộ, sản dịch mất tính chất vô khuẩn và có thể bị nhiễm các vi khuẩn gây bệnh như tụ cầu, liên cầu, trực khuẩn,… Sản dịch có mùi tanh nồng, độ pH kiềm. Nếu bị nhiễm khuẩn sẽ có mùi hôi.

Ở người sinh con so, cho con bú, sản dịch sẽ hết nhanh hơn do tử cung co hồi nhanh hơn. Ở người mổ đẻ, sản dịch thường ít hơn so với người đẻ thường. Nếu sản dịch ra nhiều, kéo dài hoặc đã hết huyết đỏ sẫm, lại tái ra máu cần phải theo dõi sót nhau khi đẻ. Trên lâm sàng, 3 tuần lễ sau đẻ ở một số sản phụ có thể ra một ít máu qua đường âm đạo, đó là hiện tượng thấy kinh non do niêm mạc tử cung phục hồi sớm.

Một số hiện tượng khác: Sản phụ mới sinh xong thường thở chậm và sâu hơn. Một số sản phụ ngay sau khi sinh có thể lên cơn rét run, đó là cơn rét run sinh lý. Đặc điểm của cơn rét run sinh lý là mạch, nhiệt độ, huyết áp vẫn bình thường. Cần phân biệt rét run sinh lý với rét run do choáng mất máu. Trong choáng mất máu, còn có sự thay đổi về mạch, huyết áp, vã mồ hôi, các chi lạnh. Sau khi sinh, sản phụ có thể sụt 3-5 kg do sự bài tiết mồ hôi, nước tiểu, sản dịc,…

Nếu không cho con bú, 6 tuần lễ sau khi sinh chị em có thể có lại kinh lần đầu tiên, và đó cũng là dấu hiệu chấm dứt thời kỳ hậu sản. Kỳ kinh nguyệt đầu thường kéo dài hơn các kỳ kinh bình thường.


Nguồn: Trang thông tin Y học thường thức
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên