![]() |
Paul Trần Văn Thình |
Có một người Việt từ rất lâu đã xâm nhập sâu rộng vào thương trường quốc tế và là nhân chứng của nhiều mốc lịch sử quan trọng. Ông là Paul Trần Văn Thình - nguyên trưởng phái đoàn thường trực của Liên minh châu Âu bên cạnh các tổ chức quốc tế tại Geneva (Thụy Sĩ).
Sinh sống mấy chục năm ở châu Âu, nhưng mỗi sáng thức dậy nhìn vào gương ông vẫn tự nhủ: “Mình là người Việt Nam”. Và đó là lý do ông chọn Tuổi Trẻ - tờ báo nơi quê nhà - để chia sẻ những tâm sự riêng về những gì đã trải qua trong đời mình.
Tôi chào đời ngày 5-2-1929 ở tỉnh An Giang, một vùng quê êm ả thanh bình. Cha tôi đặt tên cho tôi là Trần Văn Thìn, đơn giản bởi tôi cầm tinh con rồng. Thế nhưng lúc làm giấy khai sinh, người ta nói sao viết vậy theo kiểu phát âm miền Nam nên tên tôi bị ghi thành Trần Văn Thình. Vậy là tôi mang cái tên lạ vì sự nhầm lẫn đó.
Lời hứa của một đời
Không biết từ bao giờ, trong gia đình tôi định ra một nguyên tắc: con cái không trở thành thương nhân mà phải trở thành công chức.
![]() |
Có lần tôi đi theo mấy người lớn để xem đánh bạc. Tôi thấy mình cũng có khiếu đỏ đen vì thường đánh trúng. Ngặt một nỗi tôi không có tiền. Tôi để ý bà Hai có một hòm không bao giờ khóa, bên trong có rất nhiều túi vải nhỏ đựng tiền. Một hôm nhân lúc vắng người, tôi lẻn vào phòng lấy một túi. Làm một lần không bị ai phát hiện trong khi đánh bạc lại thua, tôi lấy tiếp lần hai. Rồi cứ thế tiếp diễn lần thứ ba và thứ tư. Đến lần thứ năm tôi bị bà Hai phát hiện. Bà Hai hỏi tôi ba bốn lần: “Bà nên xử sự thế nào đây?”. Tôi đáp: “Bà đánh cháu mấy roi cũng được, phạt sao cháu cũng chịu. Chỉ xin bà đừng mách ông nội”. Trong nhà, tôi sợ ông nội hơn cả vì lúc nào ông cũng nghiêm khắc với con cháu. Bà nói: “Bà sẽ cho cháu một cơ hội. Trong khi cháu suy nghĩ, bà sẽ chưa nói gì với ông. Nhưng cháu phải nghĩ ra một cách để sửa chữa lỗi lầm”.
Hôm sau, tôi còn nhớ là một buổi chiều khi hoàng hôn buông xuống bên sông, các nhà đã thắp đèn dầu, bà Hai gọi tôi ra nói chuyện. Tôi thưa với bà: “Cháu xin hứa từ nay trở đi cháu không bao giờ ăn cắp nữa”. Bà Hai ngồi lặng thinh, không nói gì lâu lắm. Sau cùng bà bắt tôi phải kể hết cho bà nghe tất cả những lần tôi đã từng ăn cắp vặt. Tôi thành thật kể tôi từng trộm tiền của cha, thậm chí trộm cả tiền trong túi áo của khách khi họ đến nhà tôi chơi. Tôi cũng kể trong bộ sưu tập tem của cha tôi có hai con tem Hungary rất đẹp. Một hôm, tôi bóc trộm để đổi lấy mấy cái nắp chai chơi đánh đáo với bọn trẻ. Cha tôi phát hiện, triệu tập cả nhà vào đúng 18 giờ để chứng kiến hình phạt. Trước mặt bà nội, em trai và em gái tôi, cha tôi bắt tôi tuột quần, đánh đúng 10 roi vào mông. Bà nội tôi khóc hu hu vì thương tôi nhưng cha tôi không chịu ngừng tay. Thế nhưng tôi không khóc. Tôi chỉ cảm thấy ê mặt vì bị đòn giữa chốn đông người.
Sau buổi tối hôm đó, bà Hai gặp lại tôi, yêu cầu tôi nhắc lại lời hứa. Bà nghe rồi nói: “Cháu có chắc đây sẽ là lần cuối cùng không. Cháu đi ăn trộm mới phải nói dối, còn không làm gì sai thì không bao giờ phải nói dối. Làm điều xấu lúc nào cũng phải nghĩ cách đối phó, không bao giờ sống vui được. Điều thứ hai cháu phải nhớ câu “cờ gian bạc lận”. Họ giả vờ cho cháu thắng mấy lần đầu đấy, còn khi cháu mang tiền ra đánh rồi, cháu có thấy là mình toàn bị thua không?”. Cứ như thế ba ngày liền, chiều nào bà Hai cũng gọi tôi ra, bắt lặp đi lặp lại lời hứa không bao giờ ăn trộm nữa. Ngày cuối cùng, bà hỏi: “Sau những lần cháu hứa như vậy, từ giờ trở đi bà có thể tin cháu được chưa?”. Tôi trả lời: “Cháu xin hứa không bao giờ làm chuyện dại dột như thế nữa”.
Lời hứa ấy theo tôi đi suốt những năm tháng sau này. Từ đó trở đi, tôi không bao giờ tham gia bất kỳ một trò chơi đỏ đen nào nữa. Lớn lên, tôi ngẫm nghĩ mãi không biết vì sao một bà già ở vùng quê VN lại có cách giáo dục tài tình vậy. Rồi tôi ngộ ra: tất cả phải do tự giác. Bà tôi không thể bắt ép tôi không được nói dối nữa, không được ăn trộm vặt nữa. Mà chính tôi, sau những cuộc đối thoại với bà, tự cảm thấy đó là điều xấu xa không nên lặp lại. Tôi ghi sâu trong lòng hình ảnh cuộc đối thoại cuối cùng, bà nhìn tôi với con mắt âu yếm. Tôi đã khóc không phải vì xấu hổ mà vì cảm động.
Theo kháng chiến
![]() |
Ông bà thân sinh ông Trần Văn Thình - Ảnh chụp tại Geneva năm 1991 |
Lúc ấy tôi học Trường Pétrus Ký (nay là Trường Lê Hồng Phong). Các học sinh trong trường có phong trào làm lựu đạn tự tạo. Tôi cũng tham gia và giúp một số học sinh cất giữ lựu đạn. Một kỷ niệm ở Trường Pétrus Ký là các học sinh người VN phải tham gia thi tuyển để được vào học. Tôi nhớ khóa năm 1939, năm tôi lên 10, tôi thi vào lớp 6 cùng 3.000 thí sinh khác và đậu thứ ba. Cha tôi làm một bữa tiệc nhẹ, gồm có phó mát, sandwich và rượu vang. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi được nếm một ly rượu vang đỏ chát.
Đầu năm 1946, tôi trốn nhà, bỏ học để tham gia lực lượng vũ trang bộ đội Hoàng Diệu thuộc Tỉnh bộ Đồ Chiểu (Bến Tre). Một ngày nọ trên đường hành quân, tôi gặp lại một anh bạn học ở Pétrus Ký. Anh ấy quí tôi, gặp lại tôi liền lôi chai rượu Bordeaux anh ấy cất giấu rất kỹ ra mời. Tôi không uống một mình mà mời cả tỉnh đội uống. Chúng tôi được một buổi thư giãn. Không ngờ khi trung đội trưởng biết chuyện, ông ấy nổi trận lôi đình và ra quyết định hành quyết bạn tôi. Tôi lên tiếng bênh vực thì ông ấy đòi xử tử luôn cả tôi nữa. Tôi đành im lặng. Anh bạn tôi bị bỏ rọ trôi sông. Khi chứng kiến cảnh tượng ấy, tôi quyết định bỏ đi. Tôi nghĩ cách hành xử như vậy là không cao thượng và không công bằng.
Tôi đi lang thang nơi này nơi nọ. Một hôm, tôi nhớ là một ngày nắng hè tháng 6-1946, đang lang thang ở chợ thì bỗng đâu mấy người lính Pháp ập tới. Hóa ra mẹ tôi đã nhờ lính đến bắt đưa tôi về. Mẹ thuyết phục tôi về Sài Gòn học lại, nếu không sẽ cho lính bắt bỏ tù luôn. Vậy là tôi về nhập học ở Trường trung học Chasseloup-Laubat, nay là Trường Lê Quý Đôn.
Trong gần bảy tháng theo kháng chiến ấy, người làm tôi cảm động nhất là người vợ thứ ba của cha tôi. Mỗi khi gặp chuyện gì, tôi hay chạy về nhà bà Ba ở Bến Tre để lánh nạn. Tôi quí bà bởi bà che chở và lo lắng cho tôi không khác gì con ruột.
Trở về Sài Gòn, những tưởng tôi sẽ tu chí ăn học, nhưng những rắc rối mới thật sự bắt đầu.
![]() |
Tạp chí Kinh Tế Viễn đông (FEER) số ra ngày 11-11-1993 đăng hồ sơ với tựa đề: Cựu du kích quân Việt Nam trở thành viên chức hàng đầu của Ủy ban châu Âu |
-------------------------------------
Năm 17 tuổi, Trần Văn Thình bước xuống một chuyến tàu xuất phát từ cảng Sài Gòn thẳng hướng tới Toulouse, Pháp. Cuộc đời của ông lật sang trang mới, khép lại những năm tháng tuổi thơ dữ dội ở Việt Nam.
Kỳ tới:Nước Pháp
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận