Tập di cảo của Francesco de Pina lưu giữ tại Thư viện Hoàng gia Bồ Đào Nha
Lâu nay, những người yêu tiếng Việt bình thường và một số tài liệu khi nói đến chữ quốc ngữ thường cho rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes (thường gọi là Đắc Lộ), tác giả cuốn Từ điển Việt - Bồ - La in tại La Mã năm 1651, là ông tổ của chữ quốc ngữ.
Thế nhưng, sự thật chưa hẳn là vậy…
Ngay từ khi bập bẹ, chúng ta đã nói tiếng Việt, và hoàn toàn không có gì khó khăn. Nhưng "tiếng Việt khó quá!" là ý kiến của rất nhiều người phương Tây khi tiếp cận tiếng Việt.
Khi đọc, người Việt không cần phải thay đổi tiếng mà vẫn làm cho một tiếng ấy có nhiều nghĩa khác nhau, bởi vì họ chỉ cần lên giọng hoặc hạ giọng tùy theo cường độ và nhịp điệu.
ĐỖ QUANG CHÍNH
Tiếng Việt khó quá!
Tiếng Việt cấu trúc đơn giản; đơn âm không có "thì", không có chia động từ, không có tiếp đầu ngữ, vĩ ngữ thì có gì là khó?
Xin thưa, đối với người phương Tây, tiếng Việt khó ở chỗ phát âm (nghe và nói).
Giáo sĩ Marini, người đã từng đến Đàng Trong những thập niên đầu thế kỷ 17, viết: "Khi đọc, người Việt không cần phải thay đổi tiếng mà vẫn làm cho một tiếng ấy có nhiều nghĩa khác nhau, bởi vì họ chỉ cần lên giọng hoặc hạ giọng tùy theo cường độ và nhịp điệu" (Lịch sử chữ quốc ngữ, Đỗ Quang Chính, NXB Tôn Giáo 2012, trang 15).
Đây là một nhận xét cực kỳ "mới" mà người Việt chúng ta không bao giờ để ý. Chỉ cần thay đổi chút xíu khẩu âm và không thay đổi khẩu hình thì các chữ "ca, cà, cá, cả" mang nghĩa khác nhau một trời một vực.
Nửa cuối thế kỷ 16, các giáo sĩ thừa sai Dòng Tên (Jésu) đã bắt đầu đến châu Á truyền đạo. Một trong những nơi họ đến ban đầu chính là Trung Quốc, nơi mà trước đó vài thế kỷ, Maco Polo, nhà buôn người Ý, đã đến và mang về nhiều đồ vật lạ lùng của phương Đông.
Dòng Tên là một dòng tu trí thức của đạo Thiên Chúa. Tất cả những giáo sĩ của dòng này đều có trình độ tiến sĩ, nếu ai không đạt được bằng cấp ấy thì buộc phải rời dòng.
Những giáo sĩ này xuất thân từ những nước sử dụng chữ viết Latin nên khi đến những nước sử dụng chữ tượng hình đã gặp khó khăn trong việc truyền đạo. Do là những trí thức có trình độ cao, họ nhanh chóng học nói tiếng của người bản địa.
Song việc truyền đạo không chỉ nói là đủ, mà cần phải có kinh sách để các con chiên có thể học, đọc theo và truyền lại. Bởi không có giáo sĩ, thầy giảng nào có thể thay thế kinh sách. Mà chữ tượng hình thì rất khó học, và mất rất nhiều thời gian để học mới có thể đọc sách được, chứ chưa nói đến việc dịch lại kinh sách nước ngoài.
Mặt khác, việc truyền đạo Thiên Chúa vào các nước này (trong đó có nước ta) vào thời điểm ấy không phải lúc nào cũng suôn sẻ, dễ dàng, liên tục, do tùy thuộc vào sự vui buồn của quan quân địa phương, tùy thuộc vào tình hình chính sự yên ả hay loạn lạc của quốc gia mà các giáo sĩ Dòng Tên đặt chân đến.
Nhiều giáo sĩ sau một thời gian ngắn truyền đạo đã bị bắt, bị giết, bị đuổi đi...
Để có thể truyền lại kinh sách một cách tốt hơn, các giáo sĩ đã nghĩ ra phương pháp "Latin hóa chữ tượng hình". Và họ đã làm việc này ở Ấn Độ, Trung Quốc và Nhựt Bổn.
Chữ quốc ngữ từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19
Latin hóa tiếng Việt
Đầu thế kỷ 17, một số giáo sĩ thuộc Dòng Tên đã đến Hội An. Họ dùng tiếng Hán và Nhựt để giao tiếp với dân địa phương qua phiên dịch của các thương nhân.
Đến năm 1617, giáo sĩ Francesco de Pina người Bồ Đào Nha đến Hội An và Nước Mặn (thuộc Bình Định), rồi trở về cư ngụ tại Thanh Chiêm (Điện Bàn, Quảng Nam) đã học rất nhanh tiếng Việt và trở thành người phương Tây giỏi tiếng Việt nhất thời bấy giờ.
Và để có thể truyền lại kinh sách giáo lý của đạo Thiên Chúa, Pina cùng một số giáo sĩ khác đã có kinh nghiệm Latin hóa tiếng Nhựt, Hán bắt tay vào Latin hóa tiếng Việt.
Thuở ấy, người Việt vẫn nói tiếng Việt như bây giờ. Song do phải trải qua 1.000 năm bị Trung Quốc đô hộ, giới trí thức nước ta bị ảnh hưởng của Trung Hoa rất mạnh. Không rõ trước đó, người Việt có chữ riêng của mình hay không. Song các triều đại của người Việt sau này đều dùng chữ Hán trong các văn bản chính thức.
Khoảng thế kỷ thứ 10, người Việt đã "sáng chế" ra thứ chữ Việt bằng cách mượn chữ Hán mà viết, gọi là chữ Nôm (nghĩa là Nam, sau gọi là quốc âm). Song nếu chữ Hán khó một thì chữ Nôm khó mười. Bởi phải biết và giỏi chữ Hán mới có thể viết được, học được chữ Nôm.
Đối với người Việt học chữ Nôm đã khó, với người ngoại quốc xa lạ với chữ tượng hình thì chữ Nôm càng khó. Vẫn có thể học được, viết được nhưng không thể phổ biến rộng được. Chính vì vậy các giáo sĩ đã nghĩ đến việc Latin hóa tiếng Việt bằng mẫu tự Latin, mà ngày xưa gọi là "chữ Annam viết bằng mẫu tự Latin".
Có một số người được công nhận là "tác giả" chữ quốc ngữ là các giáo sĩ Francesco de Pina, Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa (đều là người Bồ Đào Nha), Cristoforo Borri (người Ý), Alexandre de Rhodes (người Pháp)...
Giáo sĩ Borri chỉ ở nước ta ba năm từ 1615 đến 1618. Còn ba giáo sĩ còn lại đều đến Đàng Trong năm 1624 và đều là học trò tiếng Việt của giáo sĩ Francesco de Pina.
Tuy nhiên, trong số này, chỉ có giáo sĩ Đắc Lộ cho in cuốn sách tiếng Việt đầu tiên là cuốn Từ điển Việt - Bồ - La nên được dân Việt cho là "ông tổ" của chữ quốc ngữ từ hơn trăm năm qua.
Văn bản chữ quốc ngữ năm 1659 của tu sĩ người Việt Bento Thiện của dòng tu Kẻ Giảng - Ảnh tư liệu
Tại sao là Việt - Bồ - La?
Từ giữa thế kỷ 19, sau khi chiếm Nam kỳ rồi cả nước Việt, người Pháp vừa muốn đẩy mạnh việc phổ biến chữ quốc ngữ vừa muốn tôn vinh văn hóa và nhân vật nước Pháp nên đã không ngần ngại tuyên truyền rằng: Chỉ có mỗi giáo sĩ Đắc Lộ là có công với chữ quốc ngữ với bằng chứng rõ ràng ông là người đầu tiên đứng tên trong cuốn sách chữ Việt - Từ điển Việt - Bồ - La.
Nhưng tại sao cuốn từ điển này hoàn toàn không đề cập gì đến tiếng Pháp trong khi Đắc Lộ là người Pháp?
Kỳ tới: Chữ quốc ngữ ra đời năm nào?
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận