![]() |
Mười bốn người lính của tàu 43 đã được chị Đặng Thùy Trâm chăm sóc chữa trị tại bệnh xá Đức Phổ, ông Lưu Công Hào là người ngồi hàng đầu, thứ hai từ trái qua - Ảnh tư liệu Bảo tàng Hải quân (L.Đ.Dục chụp lại) |
Các anh đi rồi nhưng tất cả nơi đây còn ghi lại bóng dáng các anh: những con đường đi, những chiếc ghế ngồi chơi xinh đẹp, những câu thơ thắm thiết yêu thương…”. Những người được chị Thùy nhắc đến ấy chính là các chiến sĩ của “đoàn tàu không số” sau khi đưa tàu vận chuyển vũ khí vào Phổ An (Đức Phổ, Quảng Ngãi) bị địch phục kích đã chiến đấu và còn lại 14 người, sau khi được nhân dân che chở đã tìm đường lên miền tây Quảng Ngãi. Các anh đã có một tháng điều trị ở bệnh xá Đức Phổ trong sự chăm sóc của bác sĩ Đặng Thùy Trâm.
Kỳ 1: Bác sĩ - nghệ sĩ Kỳ 2: Thùy và Đỗ Mộc Kỳ 3: Sống trong lòng Đức Phổ
Những chuyến tàu bi tráng
Một người trong số đó là ông Lưu Công Hào - thủy thủ của tàu 43 lữ đoàn 125 hải quân. Gần 40 năm đã qua, những ký ức về chị Thùy vẫn vẹn nguyên trong ông, hơn thế ông đã nâng niu gìn giữ những kỷ vật của chị Thùy.
Gọi là "tàu không số" nhưng thật ra các tàu đều có số hiệu tại đơn vị, chỉ khi tiến hành thâm nhập vào miền Nam để tiếp tế vũ khí mới tùy theo từng vùng biển đi qua mà con tàu có thể mang nhiều số hiệu khác nhau.
Con tàu vận tải vũ khí vào Đức Phổ mang số hiệu 43 là một trong bốn con tàu tiếp tế vũ khí cho chiến trường miền Nam dịp tổng tấn công xuân Mậu Thân 1968 (ba chiếc kia là tàu 235 do thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy vào Hòn Hèo, Khánh Hòa; tàu 165 do thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm chỉ huy đi vào bến Vàm Lũng, Cà Mau; và tàu 56 do thuyền trưởng Nguyễn Văn Ba - Ba Râu - chỉ huy vào bến Lô Giao, Bình Định).
Bốn tàu ra đi nhưng chỉ có tàu 56 trở về, ba chiếc còn lại đều đụng độ với đối phương và hủy tàu. Trận đánh của tàu 43 sau này được thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng kể lại với nhà văn Nguyên Ngọc khi ông đi làm bộ phim Đường mòn trên biển Đông và trong câu chuyện ấy thuyền trưởng Thắng đã kể về nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm...
Và từ sợi dây mong manh ấy nối dài đến khi những trang nhật ký của chị Thùy "trở về" vào năm ngoái thì miền ký ức của người lính tàu không số chợt bừng thức. Ông Hào đã ngắm nhìn lại cuốn sổ nhỏ ngày xưa, tấm hình chị Thùy chụp khi còn là học sinh ở Hà Nội.
Sau trận chiến không cân sức với đối phương khi tàu vừa chuẩn bị quay mũi lao vào bến để xuống hàng ở Đức Phổ, ban chỉ huy quyết định hủy tàu, có ba anh em trên tàu hi sinh là Vũ Văn Ruệ, Võ Nho Tòng và Phạm Văn Rai, còn 14 chiến sĩ nhưng bị thương mất 11 người, chính bà con ở thôn Quy Thiện, xã Phổ Hiệp đã cưu mang đùm bọc anh em trong những ngày nguy khốn đó.
Sau mười ngày đêm nằm dưới hầm bí mật, trên mặt đất đối phương ập vào làng càn quét truy tìm nhưng không sao tìm thấy dấu vết. Thật kỳ lạ, lòng dân nơi đây đã che chở an toàn cho tất cả. Sau đó các thương binh được anh em du kích cáng lên bệnh xá, nhưng hai đêm liền đều gặp phục kích phải quay lại, đêm thứ ba mới thoát được. Hơn một ngày rưỡi xuyên rừng, vào chiều tối hôm sau các anh em thủy thủ của tàu 43 mới đến được bệnh xá của chị Thùy.
Một tháng ở bệnh viện
|
Ký ức của ông Hào vẫn còn vẹn nguyên hình ảnh của bệnh xá giữa rừng ấy. Hai ngày sau khi các chiến sĩ “đoàn tàu không số” lên đến bệnh xá thì chị Thùy mới đi công tác về.
Nhìn vết thương của anh em, chị không cầm được nước mắt: “Các anh đã về đến đây cứ yên tâm điều trị, nhanh chóng phục hồi sức khỏe để còn tiếp tục chiến đấu”.
Chiến trường Khu 5 cũng như cả chiến trường miền Nam sau Tết Mậu Thân vô cùng khốn khó và khốc liệt. Những thương binh như ông Hào được tiêu chuẩn là ăn cơm với rau má chấm cá chượp, còn chị Thùy và các anh em trong bệnh xá phải ăn độn khoai lang.
Nạn đói lại hoành hành bà con đồng bào miền tây Quảng Ngãi, những ngày ấy toàn bệnh xá đều thực hiện khẩu lệnh: Vì đồng bào Ba Tơ, mỗi người dành nửa khẩu phần ăn của mình để cứu đói cho bà con dân tộc thiểu số.
Những chuyến đi về đồng bằng nhận lương thực, thuốc men lên để chăm sóc thương binh dạo ấy vô cùng nguy hiểm vì bị phục kích, rình rập, bơ gạo mang lên đến bệnh xá lại chia ra một nửa để cứu đói cho đồng bào.
Gian khó vậy nhưng ai cũng lạc quan, niềm lạc quan bắt đầu từ chị Thùy, từ tấm lòng của chị, những tâm sự của chị và cả những dự định tương lai của chị.
Ngay trong những ngày ấy, chị Thùy viết lưu bút cho người lính trẻ Lưu Công Hào mà chị coi như đứa em trai, chị đã mơ đến một ngày không xa “chị sẽ đến Đồ Sơn nghỉ mát, và một buổi chiều nào đó trên bãi biển Đồ Sơn chị lại được gặp em, được nắm tay em (cánh tay đau đã làm em mất ngủ mấy đêm ở trạm này lúc ấy đã lành từ lâu rồi em nhỉ...)”.
Gần 40 năm rồi, ông Hào vẫn nhớ những buổi trưa, tranh thủ ánh nắng hiếm hoi chị Thùy mang dụng cụ y tế, bông băng ra phơi. Sợ máy bay phát hiện, ông Hào trèo lên cây kéo kín tán lá ngụy trang, tiếng chị Thùy nhẹ nhàng nhắc: “Cẩn thận Hào nghe, cẩn thận kẻo ngã đấy em nhé”...
Những ngày sau đó, khi một số anh em thương binh hồi phục, các anh vào rừng chặt những cây gỗ thẳng, đều đặn làm thành những chiếc ghế nhỏ tặng bệnh xá, làm những lan can để anh em thương binh vịn tay tập đi lại, làm cả một khu nghỉ ngơi cho thương binh (những chiếc ghế này đã được chị nhắc đến trong những dòng nhật ký hôm chia tay). Đó là những ngày rất đẹp trong ký ức anh lính trẻ Lưu Công Hào dù mỗi ngày phải luôn đối mặt với muôn vàn hiểm nguy.
Một tháng điều trị ở bệnh xá qua mau, rồi một buổi chiều anh em thủy thủ của “đoàn tàu không số” nhận lệnh lên đường, không biết tự bao giờ chị Thùy đã chuẩn bị đầy đủ tăng, võng, balô, ruột tượng đựng gạo... để anh em vượt Trường Sơn ra Bắc, trở lại với những con tàu để tiếp tục chi viện vũ khí cho chiến trường Nam bộ.
Ngày chia tay, chị Thùy đã nắn nót ghi vào cuốn sổ nhỏ của Lưu Công Hào ngoài những dòng lưu bút là địa chỉ của người em gái Đặng Phương Trâm, địa chỉ gia đình để anh lính trẻ khi về đến Hà Nội sẽ ghé thăm...
Sau ba tháng vượt Trường Sơn, những người lính đã về đến hậu phương, nhưng công việc của những người lính tàu không số luôn là một bí mật đặc biệt, ông Hào không thể đến thăm gia đình chị Thùy và cô em gái Phương Trâm như chị Thùy dặn dò.
Rồi những chuyến đi vào Nam tiếp tục cho đến ngày hòa bình. Những dòng chữ và tấm hình chị Thùy tặng ông Hào vẫn gìn giữ như một kỷ vật thiêng liêng. Bây giờ, cuốn sổ tay bé tí với những dòng lưu bút, tấm hình chị Thùy tặng đã được ông Hào trao lại cho Bảo tàng Hải quân (tại thành phố Hải Phòng), đặt ở một vị trí trang trọng, thảng hoặc ông Hào lại vào nhìn để nhớ về một phần đời không thể nào quên.
oOo
Đào Lý Phương viên vẫn nguyên vẹn như ngày nào với rường cột, mái ngói cổ xưa. Di ảnh chính của chị Thùy đã được gia đình đưa về thờ cúng ở mái nhà xưa này, nơi chứng kiến những tiếng khóc đầu đời của chị…
Kỳ tới: Mái nhà xưa ở Huế
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận