![]() |
Pha trà là một nghệ thuật |
Năm ngoái năm kia, người ta ồn ào lên về chuyện có người phát hiện một vài cây trà cổ có tuổi mấy trăm năm trong những khu rừng già heo hút ở xứ sở của người Châu Mạ, nam Tây nguyên.
Vậy nghĩa là có thể đặt giả thiết: ở đất nam Tây Nguyên hàng trăm năm trước đã là nơi sinh trưởng của cây trà? Hoặc chí ít là lịch sử của vùng chuyên canh trà Lâm Đồng không phải chỉ có chưa đầy trăm năm tuổi? Phát hiện ấy được cho là một “cú sốc” mặc dù chưa có ai và ngành nào đứng ra chứng thực...
Lịch sử canh nông ở địa phương viết rằng cây trà xuất hiện đầu tiên trên đất Lâm Đồng vào đầu năm 1927. Người có công du nhập cây trà và nghề làm trà vào đất này là một công dân Pháp - ông Romoeville. Cây trà bắt đầu được trồng ở vùng Cầu Đất - Đà Lạt, nơi đóng sở trà của Công ty Trồng trọt nhiệt đới do người Pháp lập ra ở Đông Dương. Trong chương trình khai thác thuộc địa của chính quyền thực dân, từ năm 1925 - 1939 đã có 500.000ha đồn điền, nông trại của các ông chủ Pháp và Nam triều ra đời. Đến 1954 ở Đồng Nai Thượng đã có tới 409 đồn điền lớn nhỏ, phần lớn trồng trà và cà phê.
Càng ngày cây trà càng chứng tỏ được sự thích nghi với môi trường sinh thái ở vùng đất mới này. Do vậy, Nha Khảo sát canh nông Đông Dương đã có nhiều nghiên cứu và hỗ trợ cho việc phát triển diện tích trồng trà trên xứ sở mà nhà bác học Yersin có công phát hiện. Mất đất, người dân bản xứ phải đi làm thuê trong các đồn điền. Bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu xương, họ đã học từ các ông chủ đồn điền nghề canh tác và chế biến trà. Nghiệp trà ở đất bazan ra đời trong dòng chảy lịch sử ngập đầy cả hương vị ngọt bùi lẫn cay đắng...
![]() |
Từ vùng Cầu Đất trên độ cao 1.000m, theo quá trình hình thành và phát triển, theo nhu cầu khai thác đất đai và nhân công bản xứ của giới chủ người Pháp mà cây trà lan dài xuống vùng Bảo Lộc, Di Linh theo lộ trình mới mở của con đường từ Đà Lạt đi Sài Gòn vào thập niên 1930. Trà bắt đầu làm quen với đất BLao từ các đồn điền của người Pháp như đồn điền Felit BLao, BLao Sierré... rồi dần dà là sự ra đời của các trang trại, các rẫy trà, vườn trà của các hộ gia đình. Từ đó ở vùng đất này đã xuất hiện một tầng lớp cư dân đông đảo chuyên sống bằng nghề canh tác hoặc chế biến trà hương. Một thế giới riêng của những người làm trà trên đất bazan đã khai mở từ gần 80 năm trước.
Ngay từ những ngày đầu dựng nghiệp trà trên quê hương mình, những người làm trà đã chọn ngay địa danh BLao để đặt tên cho sản phẩm của họ. Nhờ tiếng tăm đã được khẳng định của “thương hiệu BLao” mà các danh trà sau này đều dùng thêm chữ “trà BLao” trên bao bì sản phẩm.
Đó có thể là danh trà Quốc Thái, Đỗ Hữu, Trâm Anh, hay Rồng Vàng, Thiên Thành, Ngọc Trang... “Nếu không ghi chữ BLao vào bao bì thì sản phẩm như mất đi phần bản sắc quan trọng nhất và rất khó tiêu thụ” - chủ một danh trà đã khẳng định như thế. Điều đó minh chứng thêm cho sự hòa quyện máu thịt giữa con người, xứ sở và sản phẩm ra đời trên miền đất cao nguyên. Đồng thời, một lý do quan trọng khác là trà BLao mang dấu ấn đặc trưng riêng trong phong vị đã từng chinh phục thói quen thưởng trà của người “Đàng Trong” trong khi ở “Đàng Ngoài” có trà Bắc Thái nức tiếng lâu đời.
Trà Bắc Thái thường sao suốt và không ướp hương. Còn trà BLao thì búp tươi được luộc qua, ép bớt nước đắng rồi mới sao khô, ướp hương. Hương ướp trà ở BLao chủ yếu là hoa sói, hoa nhài. Đặc biệt, hoa sói rất thích hợp với khí hậu Bảo Lộc. Hạt hoa sói nhỏ, trắng xanh như hạt gạo nếp và hương của nó rất “ăn” với cành trà.
![]() |
Nghề làm trà ở cao nguyên BLao đã thành nghiệp cha truyền con nối. Những ông chủ của thế hệ đầu tiên của các danh trà nổi tiếng hầu như đã về với đất. Vẫn là những tên gọi cũ nhưng những người kế nghiệp đã sang đến đời thứ ba, thứ tư.
Ở Bảo Lộc, chục năm lại đây xuất hiện rất nhiều doanh nghiệp - doanh nhân trong và ngoài nước tìm đến làm trà. Họ là những ông chủ Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc... đến đầu tư thuê đất đai, nhân công và trồng trà để làm giàu và họ đã giàu nhanh chóng. Gần 1.500 cơ sở sản xuất chế biến trà lớn nhỏ là con số thống kê ở “đô thị trà” Bảo Lộc. Trà BLao không chỉ còn là sản phẩm nội tiêu mà đã tỏa hương ở nhiều thị trường trên thế giới.
3. Trong số 33 tỉnh trồng trà với tổng diện tích trên 125.000ha trong cả nước, Lâm Đồng được xác định là vựa trà VN. Với diện tích gần 26.000ha, sản lượng trên 182.000 tấn, Lâm Đồng chiếm 21% diện tích và 27% sản lượng trà toàn quốc, đạt công suất 150.000 tấn búp tươi/năm. Nên việc Festival trà đầu tiên ở VN được tổ chức ở Lâm Đồng là hoàn toàn xứng đáng.
Nếu gọi BLao là “thủ đô trà” thì Cầu Đất có thể coi là “nguồn cội trà” của Lâm Đồng. Chỉ cách trung tâm Đà Lạt có hơn chục cây số nhưng không gian ở đây khác hẳn: đậm “chất trà”, vừa mang tính hoài niệm của thuở xưa khai đất vừa thể hiện sinh động những hình ảnh của sự bứt phá mới. Trà phủ xanh núi đồi, trà mênh mang bất tận.
Ở nhà máy chế biến trà có tuổi gần 100 năm của Công ty cổ phần trà Cầu Đất, vẫn còn dây chuyền sản xuất trà đen của Pháp gồm sáu cỗ máy, được coi là cổ nhất Đông Dương hiện nay, với các chức năng từ vò, sấy, sàng, lên men, đến đánh bóng, làm sạch, đóng gói thành phẩm. Gần trăm năm rồi, những cỗ máy cũ kỹ ấy vẫn đều nhịp vận hành như nhắc nhở về một miền ký ức khó phai mờ.
![]() |
Cụ Nguyễn Thị luyến, 79 tuổi, bên máy sàng khô trà đã có tuổi 80 năm tại Nhà máy chế biến trà Cầu Đất. Thân sinh của cụ Luyến là cụ Nguyễn Hữu Tánh, một trong những công nhân đầu tiên của Sổ trà Cầu Đất năm 1927 |
Những người kế thừa và tiếp nối nghiệp trà ở Cầu Đất hôm nay cũng đã thực thi ý tưởng khôi phục và bảo tồn nguồn gen cho một quần thể những cây trà cổ. Đây là loại trà shan được người Pháp du nhập về sở trà này từ những thập kỷ đầu của thế kỷ 20. Mỗi cây trà shan cổ thụ có đường kính vòm lá từ 2-4m và đường kính gốc không dưới 0,5m.
Non một thế kỷ đã đi qua trên mỗi thân trà xù xì, già cỗi, bạc phếch màu địa y dưới những tán lá xanh. Dù đã thay thế hầu hết diện tích trồng trà bằng giống mới nhưng Công ty cổ phần trà Cầu Đất vẫn thủy chung giữ lại 127ha trà cổ thụ, tiếp tục chăm bón, sản xuất và chế biến, trong đó có 1ha được chăm sóc theo chế độ đặc biệt để phục vụ khách tham quan ghé thăm vườn trà cổ, ngắm những cỗ máy sản xuất trà đen 80 năm tuổi thọ, uống ly trà thơm sóng sánh màu mật ong ngay dưới gốc cây trà shan và nghe chuyện về những ngày tháng xưa cũ với những bậc cao niên trong nghề...
Gần một thế kỷ trước, khi đưa giống trà shan vào canh tác thử nghiệm trên cao nguyên Cầu Đất, có lẽ ông Romoeville cũng không dám nghĩ rằng loại trà này lại trường thọ đến vậy. Những người tiếp nối nghiệp trà ở đất này luôn ghi ơn bậc trưởng bối đến từ nước Pháp non thế kỷ trước. Người đã chọn, đất đã ưa thì cây trái cứ hồn nhiên sinh tồn và phát triển, dù trang sử của mỗi quốc gia hay thân phận của mỗi con người có lúc thịnh lúc suy. Đời của mỗi người thì đã qua và rồi lại sẽ qua, nhưng ở đất bazan cao nguyên này, nghiệp trà vẫn cứ trường tồn mãi mãi.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận