![]() |
"Báu vật nhân văn sống" (Living human treasures) cho các nghệ nhân dân gian, có những chế độ hỗ trợ kinh phí lưu truyền, bảo tồn... nếu không muốn mất đi những giá trị đáng phải gìn giữ, nâng niu.
Tuổi Trẻ đã đi tìm gặp họ, những người mà cuộc đời chỉ tóm gọn trong mấy chữ: Đời người - đời nghề.
Phiên chợ tranh cuối cùng
![]() |
Nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam hằng ngày vẫn kèm cặp những đứa cháu của mình đến với tranh truyền thống của gia đình, của làng - Ảnh: Đức Bình |
Nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam năm nay đã 77 tuổi (sinh năm 1930), nhưng đã có tới 70 năm làm nghề. Ông Sam hồi tưởng: "Từ những năm 1940, nghề tranh Đông Hồ cực thịnh. Từ Nghệ An, Thanh Hóa trở ra, nhà nào tết đến dù nghèo mấy cũng mua mấy bức tranh Đông Hồ về lấy may.
Làng có 17 dòng họ bám nghề tranh mà sống. Những người làm tranh bằng hoặc hơn tuổi tôi thì không thể quên được những ngày mùa làm tranh và những phiên chợ bán tranh vào dịp tết. Vào khoảng cuối tháng bảy, đầu tháng tám hằng năm, cả làng đã tất bật để chuẩn bị cho mùa tranh tết, khắp làng rực rỡ sắc màu của giấy điệp".
Lên 5 tuổi, nghề làm tranh đã bắt đầu ngấm vào máu cậu bé Sam.
Vào mùa tranh, suốt ngày cậu bé lon ton giúp cha sơn hồ, quết điệp lên giấy dó, thu dọn giấy khô rồi chập chững học cách in tranh sao cho đúng màu sắc. Chợ tranh làng Hồ - chợ Hồ trở nên nhộn nhịp và tấp nập nhất vào tháng chạp với năm phiên họp vào các ngày 6, 11, 16, 21 và 26. Ông Sam kể hôm họp chợ, khách thập phương kéo đến đông nghịt. Những người trong làng đi làm ăn khắp nơi nhớ câu ca của làng Dù ai buôn bán trăm nghề/ Nhớ đến tháng chạp thì về buôn tranh, cũng lũ lượt trở về họp chợ. Tết năm Dậu 1945, giữa nạn đói khủng khiếp hoành hành khắp Bắc kỳ, chợ tranh làng Hồ vẫn mở. Năm ấy, cậu bé Sam phải một mình ra chợ bán.
Ông Sam nhớ lại: "Chợ tranh xơ xác tiêu điều, chợ họp mà chẳng còn ai đủ hơi sức chú ý và mua tranh nữa, chỉ lo kiếm miếng ăn. Đôi bồ tranh tôi quảy đi lại quảy về nặng trĩu. Năm ấy nhà tôi không có tết". Rồi vài năm sau, khi toàn quốc bắt đầu kháng chiến, quân Pháp kéo lên bờ bên này sông Đuống, người dân làng Hồ phải lũ lượt gồng gánh di tản. Riêng cậu bé Sam, đồ đạc trong nhà bỏ lại cả, chỉ gánh theo những bản khắc gỗ in tranh. Ông Sam xót xa: "Sau chiến tranh, hòa bình lập lại, kể cả lúc cuộc sống dễ thở hơn nhưng chưa năm nào làng tổ chức lại chợ tranh vào dịp tết như xưa. Không ngờ phiên chợ tranh tết năm Dậu đói kém lại là phiên chợ tranh cuối cùng của đời tôi".
Sống, chết cũng phải giữ nghề
![]() |
Làng Đông Hồ ngày nay khắp ngõ ngách đều phơi giấy hồng giấy đỏ, nhưng không phải là giấy dó làm tranh mà là giấy làm vàng mã - Ảnh: Lê Bích |
Ông Sam nói: "Bao nhiêu năm trời tôi chờ cơ hội hồi phục làng tranh. Cơ hội rồi cũng đến, năm 1967, tôi được Sở Văn hóa tỉnh Hà Bắc (cũ) mời lên bàn kế hoạch khôi phục dòng tranh dân gian truyền thống Đông Hồ. Trên đường về mà lòng vui phơi phới với hi vọng làng tranh sẽ được sống lại".
Một tổ hơn 50 người toàn có nghề cả được ông Sam nhanh chóng tuyển chọn, tập hợp đem theo cùng hàng nghìn bản khắc gỗ cổ năm xưa gìn giữ thành lập một hợp tác xã sản xuất tranh. Sau đó là những ngày, người làng Hồ thấy ông Sam "ăn cùng tranh, ngủ cùng tranh" để "truyền lửa" cho các anh em khác. Tranh Đông Hồ được khôi phục dần, nhiều hộ trong làng cũng theo đó mà quay trở lại nghề xưa. Những bức tranh đậm màu dân tộc: Đám cưới chuột, Đàn lợn âm dương, Gà trống, Đánh ghen, Vinh hoa - phú quí... với những đường nét truyền thống được sống lại.
Nhưng niềm vui của "chủ nhiệm Sam" chẳng được lâu. Đến năm 1990, cơ chế thay đổi, tranh khó tiêu thụ, người trong nước cũng không mặn mà lắm với thú chơi tao nhã treo tranh ngày tết, hợp tác xã tranh làng Hồ phải tự giải tán. Nhiều nhà làm tranh đem những ván khắc ra đóng chuồng gà hay đem đun. "Không thể để vốn quí của làng cũng là vốn quí của dân tộc mất đi" - ông Sam tự nhủ. Ông và một số nghệ nhân khác như Nguyễn Đăng Chế, Trần Nhật Tuấn... đi từng nhà vận động thuyết phục người dân bán lại những bản khắc ấy.
Riêng ông Sam đã lưu lại được hơn 600 bản khắc cổ và sáng tạo một số bản khắc mới vừa mang tính dân gian và cả tranh hiện đại như Đến hẹn lại lên, Lý Thái Tổ hạ chiếu dời đô, Múa quạt quan họ, Tấm áo mẹ vá năm xưa... Nhiều khách du lịch nước ngoài hỏi mua với giá vài chục USD/bản để mang về nước trưng bày ông cũng không bán. Ông tâm sự: "Khi nào làng tranh trở lại ngày xưa, tôi xin tặng lại cả cho những người tâm huyết".
Ông Sam có ba con trai, một người đã hi sinh trong kháng chiến chống Mỹ, hai con trai còn lại ông đều hướng cho nghề làm tranh. Mấy đứa cháu nội, ngoại lớn nhỏ của ông cũng được ông dạy từng công đoạn làm tranh: làm giấy, pha màu, in, vẽ... nên cũng thạo nghề. Ông vẫn nói với con cháu: "Nghề làng cũng là nghề nhà, con cháu trong nhà phải biết làm, sống chết cũng phải cố giữ lấy nó”. Cơ sở sản xuất tranh của ông Sam giờ còn là điểm du lịch của nhiều tour du lịch trong và ngoài nước.
Đến làng tranh Đông Hồ bây giờ, chúng tôi thấy khắp trong làng ngoài xóm, các ngõ ngách của làng tranh đều có phơi "giấy hồng, giấy đỏ”. Nhưng không phải là giấy dó làm tranh, mà là giấy để làm vàng mã chuẩn bị Tết Nguyên đán sắp đến. Ông Nguyễn Đăng Hùng, chủ tịch xã Song Hồ, ngậm ngùi: "Cả làng bây giờ có tới 90% người dân chuyển sang làm vàng mã, chỉ còn mấy nhà cố trụ với nghề tranh. Nghề làng có nguy cơ không còn mà xã cũng chưa tìm ra cách gì”.
-----------------
Ở VN có lẽ không còn nhiều người có thể thổi sáo bằng lỗ mũi, nhất là loại sáo làm bằng nứa chỉ có một lỗ. Vậy mà trên đỉnh Châu Quế Thượng vẫn còn một người.
Kỳ tới: "Báu vật" của người Xa Phó
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận