24/04/2007 05:05 GMT+7

Huỳnh Thúc Kháng - Khí tiết của người làm báo

NGUYÊN NGỌC(Suy nghĩ nhân ngày giỗ thứ 60 của cụ Huỳnh Thúc Kháng)
NGUYÊN NGỌC(Suy nghĩ nhân ngày giỗ thứ 60 của cụ Huỳnh Thúc Kháng)

TT - Huỳnh Thúc Kháng, cùng với Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp, là nhân vật của nhóm “Bộ ba Quảng Nam” nổi tiếng, chủ xướng phong trào Duy Tân đặc sắc trong thập kỷ đầu của thế kỷ 20, đưa đến cuộc Trung kỳ dân biến chấn động năm 1908, một trong những cuộc nổi dậy bạo lực của quần chúng rộng rãi và quan trọng nhất trước Cách mạng Tháng Tám 1945.

Người duy nhất còn lại trong bộ ba lừng danh này cho đến sau Cách mạng Tháng Tám là Huỳnh Thúc Kháng. Ông cũng bị đày đi Côn Đảo cùng với Phan Châu Trinh, ở Côn Đảo lâu hơn, sau được trở về cũng do đấu tranh của các lực lượng tiến bộ trong nước và quốc tế. Trở về, ông lập tức tiếp tục hoạt động với tư cách “một nhà cách mạng công khai” như chính lời ông tuyên bố.

Năm 1926, ông làm chủ tịch Viện Dân biểu Trung kỳ, nhưng chẳng bao lâu sau đó đã từ chức vì nhận thấy ở vị trí này không thể thực hiện được những điều mình vẫn đeo đuổi. Ông quyết định chuyển sang làm báo.

Và vị nhà nho uyên thâm ấy lập tức trở thành một nhà báo hiện đại cực kỳ xuất sắc. Dường như từ những ngày ở tù, ông đã tự chuẩn bị mình cho công việc mới mẻ này. Người ta bảo rằng ở Côn Đảo, Huỳnh Thúc Kháng đã luyện tiếng Pháp bằng cách học thuộc lòng cả cuốn từ điển Larousse!...

Ngày 10-8-1926, tờ báo Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng ra đời ở Huế. Ngay từ số đầu tiên, chủ bút Huỳnh Thúc Kháng đã viết lời tuyên ngôn súc tích mà vô cùng độc đáo và dõng dạc cho tờ báo của mình: “Nếu không có quyền nói thì ít ra cũng giữ được cái quyền không nói những điều người ta buộc nói”.

Trong điều kiện xã hội của chế độ thực dân thời bấy giờ, quả như một tiếng súng sắc gọn mà vang lừng của một người chiến sĩ “cách mạng công khai”. Lời tuyên ngôn cô đọng, vắn tắt đến không thừa một chữ mà thật đầy đủ và mạnh mẽ: tố cáo quyết liệt và công khai một chế độ không có quyền tự do, con người không có quyền nói, đồng thời khẳng định một cách thách thức mà lại không thể bắt bẻ vào đâu được cái quyền riêng của mình, không ai tước đi được, quyền không nói những điều người ta buộc nói. Câu văn rất mới, rất Tây, mà hừng hực khí tiết không gì lay chuyển nổi của nhà nho.

Hơn hai năm sau, trong số báo ngày 1-5-1929, ông lại nhắc lại, lần này khẳng định một cách rành rọt hơn cái quyền bị tước mất và cái quyền không ai tước đi được của mình: “Vì rằng ta không có quyền tự do nói những điều nên nói, mà ta lại có quyền tự do không nói những cái không nên nói”...

Tôn chỉ đó, khí tiết đó của người làm báo, Huỳnh Thúc Kháng đã kiên định giữ vững trong suốt cuộc đời làm báo của mình. Tờ báo Tiếng Dân của ông chống chính quyền thuộc địa của Pháp và chính quyền Nam Triều rất quyết liệt, nhưng cũng lại là tờ báo tồn tại được lâu nhất trong thời kỳ thực dân ở Đông Dương, suốt 16 năm.

Kỳ thực Huỳnh Thúc Kháng không chỉ nói những điều được cho nói, tờ báo của ông rất nhiều lần, mạnh mẽ mà rất khôn khéo, đã nói lên được bao nhiêu điều cần nói với đồng bào của mình.

Tôi có một người cậu là bạn của Huỳnh Thúc Kháng, ông giữ được một bộ sưu tập gần như đầy đủ báo Tiếng Dân. Hồi nhỏ, cứ đến dịp hè, tôi lại đến nhà cậu, nằm lì ở đấy, lục bộ sưu tập quí ấy ra đọc.

Chính ở đấy tôi đã đọc được toàn bộ tường thuật tỉ mỉ phiên tòa xử Nguyễn Thái Học sau khởi nghĩa năm 1930. Đầy đủ chi tiết, những cuộc tranh biện căng thẳng, những lời khẳng khái của Nguyễn Thái Học trước tòa, cả những lời nói cuối cùng của người anh hùng Yên Bái trước khi bước lên đoạn đầu đài.

NGUYÊN NGỌC(Suy nghĩ nhân ngày giỗ thứ 60 của cụ Huỳnh Thúc Kháng)
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên