![]() |
Một góc làng nghề Đa Hội - Ảnh: T.Phùng |
Làng nghề hôm nay đã biến hàng vạn nông dân thành tỉ phú, biến chốn thôn quê thành khu công nghiệp sôi động. Nhưng sự phồn thịnh đó đang phải đánh đổi với những hiểm họa môi trường.
Hằng năm, Đa Hội (xã Châu Khê, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh) cung cấp cho thị trường cả nước khoảng 200.000 tấn phôi đúc, 150.000 tấn thép cán, 1.000 tấn đinh và 8.000 tấn lưới, dây thép các loại. Làng Đa Hội có tới gần 200 doanh nghiệp và gần 1.000 cơ sở, hộ sản xuất khác có quy mô tương đương doanh nghiệp.
Với mức tăng trưởng nhiều chục phần trăm mỗi năm, hiện nay Đa Hội có tới hàng ngàn tỉ phú. Nhiều doanh nghiệp phát triển quy mô lớn đã mở rộng cơ sở ở TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương... thậm chí sang cả Lào. Làng nghề này càng phát triển, ô nhiễm môi trường càng trở nên nghiêm trọng.
Làng khói
Chúng tôi đến làng Đa Hội vào một ngày mưa do ảnh hưởng của bão. Anh Trần Văn Ngọc - công an xã - dẫn chúng tôi vào cụm công nghiệp làng nghề, mô hình đầu tiên của hàng vạn làng nghề trong cả nước. Nơi này đúng nghĩa với cả hai từ “công nghiệp” và “làng nghề”. Hàng chục xe tải to lớn kềnh càng gầm rú ra vào. Nối tiếp nhau là những công xưởng đồ sộ chất đầy những thanh phôi thép, những thanh thép chữ U, chữ V, thép ống, thép xoắn... đến đinh, ốc... Tất cả đều luộm thuộm, lờ nhờ và tối sẫm. Nhiều hơn cả là những đống phế liệu sắt thép vụn với đủ loại lò xo, hộp, thùng, cọc, máy móc cũ, vỏ kim loại...
Anh Ngọc kể: “Lò đúc thép của Đa Hội được đắp bằng đất chịu lửa hoặc những lò trung tần vỏ kim loại, cao ngang mặt người, đường kính hơn 1m. Khi cắm điện, lò cháy rực và hàng tấn sắt phế thải được đưa vào đốt với hàng ngàn độ nóng. Mùi tạp chất bốc lên xoáy vào tận đáy phổi, ngột ngạt như bị bịt mũi. Khói xông vào mắt như muốn móc con ngươi ra ngoài. Đầu óc choáng váng. Những người chưa quen ngửi thì không thể chịu đựng được”.
Một cụ già ở đây nói: “Trước đây khi chưa “lách” giá điện cao điểm, các lò đúc hoạt động cả ngày lẫn đêm, hầu như lúc nào bầu trời ở làng nghề cũng dày đặc khói. Trước nữa, khi Đa Hội còn dùng lò nấu bằng than thì ngoài khói, khí của tạp chất còn có khói bụi của than, củi. Đến giờ nổi lửa, nhìn xa thấy Đa Hội chỉ là một quầng khói xám đục, dày đặc bao phủ cả vùng rộng lớn”.
Sống trong hiểm họa
Vào cụm công nghiệp tập trung cũng như vào làng, chỗ nào cũng chất thành núi những đống phế thải sắt thép dùng làm nguyên liệu nấu phôi. Từ lò xo, ống bơ, vỏ thùng sơn, hộp hóa chất, máy móc cũ, sắt gỉ... còn dính đầy nhựa, sơn, dầu, mỡ, giấy. Anh Ngọc nói vì là đồ phế liệu nên tạp chất của chúng là tất cả mọi thứ trên đời. Khi đốt, khói của chúng không qua bất kỳ khâu xử lý nào mà bay thẳng lên nóc nhà.
Ông Phạm Văn Thinh - chủ tịch xã - cho biết cả xã Châu Khê hiện có tới 1.700 cơ sở lớn nhỏ hoạt động nghề chế biến sắt thép. 159 cơ sở hoạt động trong cụm công nghiệp, còn lại là những lò thép lẫn trong khu dân cư. Cả xã có hơn 100 lò đúc, mỗi ngày cho ra đời 3.500-5.000 tấn phôi. Và để có chừng ấy sản phẩm, họ phải đốt một lượng sắt thép phế thải lớn hơn nhiều.
Xã Châu Khê có con sông mang cái tên dài: sông Ngũ Huyện Khê. Xưa kia con sông này quanh năm êm đềm chảy, giờ đây là nơi chứa đựng toàn bộ lượng nước thải của làng nghề công nghiệp nặng. Theo tính toán của Sở Tài nguyên - môi trường tỉnh Bắc Ninh, mỗi ngày Đa Hội xả khoảng 15.000m3 nước thải ra sông này. Tuy nước thải chỉ làm mát và vệ sinh lò xưởng nhưng các cơ quan khoa học cũng đo được những thông số đáng ngại: nước có hàm lượng chất rắn lơ lửng, các ion kim loại sắt, đồng, crôm, nitơ lớn hơn tiêu chuẩn cho phép, điển hình là hàm lượng sắt vượt 93 lần, kẽm vượt 4,7 lần.
Nước mặt, nước ngầm khu vực này bị “biến chất”. Trong khi hàm lượng các chất rắn lơ lửng vượt tiêu chuẩn từ 1-3 lần, dầu mỡ trong nước sông vượt 1,3-2,7 lần thì hàm lượng ôxy hòa tan - chỉ số của sự sống trong nước - tại cống thải chung của làng thấp hơn tiêu chuẩn cho phép tới năm lần. Mẫu trầm tích đáy sông Ngũ Huyện Khê còn có hàm lượng đồng vượt tiêu chuẩn 1.008 lần. Nước ngầm khu vực làng nghề đều có độ màu vượt giá trị tối đa 2,8 lần và nồng độ sắt vượt 1,92 lần.
Ông Phạm Văn Thinh cho biết: “Thời gian trước năm 2000, 50% số người chết ở Đa Hội đều có liên quan đến các bệnh về hô hấp. Từ năm 2000 trở lại đây, quy mô và công suất của các lò thép phát triển gấp nhiều lần nhưng các biện pháp bảo vệ môi trường, sức khỏe không có gì mới”. Điều đó có thể hiểu là số người mắc bệnh và tử vong vì nghề chắc chắn cao hơn nhiều.
Làng nào cũng ô nhiễm
Báo cáo mới nhất của Tổng cục Bảo vệ môi trường về ô nhiễm môi trường làng nghề cho thấy đang có ba loại hình ô nhiễm và đều ở mức trầm trọng, đó là ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước (cả nước mặt và nước ngầm) và ô nhiễm đất đai bởi chất thải rắn. Tình trạng này diễn ra hầu như ở tất cả các làng nghề: gốm sứ, vật liệu xây dựng, tái chế kim loại, nhựa, chế biến nông sản thực phẩm, dệt nhuộm, thủ công mỹ nghệ...
Kiểm tra mẫu không khí tại làng nghề nung vôi ở Kiện Khê, Hà Nam, kết quả lượng bụi cao gấp tám lần mức cho phép. Khí NO2 ở làng nghề gạch Hòa Hậu, Lý Nhân, Hà Nam cao gấp 1.500 lần mức cho phép. Ở các làng nghề gốm sứ, gạch ngói Bình Dương, Thanh Hóa, Hưng Yên, Quảng Nam... cũng đều bụi bẩn gấp năm lần trở lên. Đặc biệt, tại các làng nghề tái chế kim loại, ngoài các loại khí ô nhiễm do đốt nhiên liệu thì hơi axit, kiềm, ôxít kim loại và khí nóng còn nguy hại gấp nhiều lần. Làng nghề đúc đồng Phước Kiều có hàm lượng bụi lên đến 12mg/m3, gấp 40 lần tiêu chuẩn cho phép.
Đối với các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm thì không khí bị ô nhiễm không chỉ vì sử dụng nhiên liệu mà còn có sự phân hủy yếm khí các chất hữu cơ trong nước thải, chất thải rắn. Có lẽ không có làng nghề nào đến nay còn có thể giữ được sự trong sạch môi trường nước.
Tại làng nghề làm giấy Phong Khê, Bắc Ninh, ai vào cũng thấy những con mương, đường cống rãnh ngày đêm ồng ộc chảy với những thứ màu và mùi vô cùng khó tả. Nguồn thải đáng sợ này chảy thẳng xuống sông Ngũ Huyện Khê làm nguồn nước trên địa phận làng giấy đều có chỉ số các chất ô nhiễm cao hơn tiêu chuẩn, độ màu tương đối lớn, hàm lượng dầu mỡ vượt 2,1-5,6 lần.
Theo khảo sát của Tổng cục Bảo vệ môi trường, làng nghề ngành dệt nhuộm xả nước thải nguy hại hơn cả. Các loại hóa chất là xút, axit, thuốc tẩy giặt, các chất trợ... đã biến các nguồn nước xung quanh thành những dòng nước chết.
Cho đến nay chưa có nghiên cứu nào về ô nhiễm môi trường ảnh hưởng tới sức khỏe người dân làng nghề. Nhưng thực tế ở các làng nghề có tình trạng ô nhiễm nặng, người dân thường có rất nhiều thứ bệnh, tuổi thọ thấp và tỉ lệ tử vong cao.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận