
Người dân đến mua bán vàng tại cửa hàng vàng ở khu vực chợ Bà Chiểu (TP.HCM) - Ảnh: THANH HIỆP
Nhiều chuyên gia cho rằng nếu nhằm hạn chế việc dùng vàng như phương tiện thanh toán cạnh tranh với tiền đồng thì biện pháp này là hợp lý. Tuy nhiên, nếu mục tiêu là giảm đầu cơ vàng thì thuế VAT lại không phù hợp.
Lý lẽ của VAFI khi đề xuất đánh thuế vàng
Theo đề nghị của VAFI, việc kinh doanh vàng trang sức và vàng miếng thì phải chịu thuế VAT theo phương pháp khấu trừ như các hàng hóa thông thường một cách bình đẳng về nghĩa vụ chịu thuế.
VAFI tin tưởng rằng với việc sửa đổi chính sách này sẽ có tác dụng hạn chế đầu cơ lướt sóng, thổi giá kiếm lời. Thay vào đó, dòng tiền sẽ chuyển hướng vào hệ thống ngân hàng, bảo vệ mạnh mẽ đồng nội tệ, dự trữ ngoại tệ tăng trong hệ thống ngân hàng.
Bà Hà Võ Bích Vân, cố vấn tài chính tại Hub Đồng Hành thuộc Công ty CP tư vấn đầu tư và quản lý tài sản FIDT, cho rằng chính sách thuế có thể góp phần tăng tính minh bạch cho thị trường, hạn chế đầu cơ lướt sóng và tạo nguồn thu hợp lý cho ngân sách.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy vàng vẫn là kênh trú ẩn truyền thống của người dân Việt Nam. Nếu chỉ đánh thuế mà chưa có giải pháp đồng bộ về tỉ giá, lãi suất hay phát triển kênh đầu tư thay thế, thì việc áp thuế có thể khiến chênh lệch giá trong ngoài nước tăng, và giao dịch phi chính thức nở rộ.
"Chính sách thuế chỉ là một phần nhỏ trong việc điều tiết hành vi đầu tư. Để giảm đầu cơ vàng bền vững, điều cốt lõi vẫn là ổn định vĩ mô, kiểm soát tỉ giá và lãi suất, đồng thời tăng niềm tin của người dân vào các kênh đầu tư tài chính chính thức. Nếu không song hành cùng các yếu tố đó, việc đánh thuế vàng rất dễ khiến thị trường "chuyển trạng thái" sang phi chính thức hơn, chứ chưa chắc đã giảm được đầu cơ", bà Vân nói.
Trong khi đó, đại diện một doanh nghiệp kinh doanh vàng bạc đá quý (đề nghị giấu tên) tỏ ra bất ngờ trước đề xuất thu thuế VAT trên hóa đơn với vàng. "
Thực tế vàng có giá trị rất cao, nhưng biên lãi của đơn vị kinh doanh cũng không nhiều, người dân thì nhu cầu mua tích trữ và cưới hỏi rất lớn. Nếu thu như vậy con số sẽ quá lớn", vị lãnh đạo nói đây là kiến nghị bất khả thi.
Mở rộng vấn đề, vị lãnh đạo doanh nghiệp này nhấn mạnh mọi chính sách thuế áp dụng với thị trường vàng cần được cân nhắc kỹ, đặc biệt để tránh tác động tiêu cực đến ngành chế tác và kinh doanh trang sức.
"Thời gian qua, giá vàng tăng mạnh đã khiến sức mua trang sức sụt giảm, ngay cả với những khách hàng có nhu cầu thật, như các gia đình chuẩn bị cưới hỏi", vị này chia sẻ.

Người dân mua sắm vàng trang sức ở TP.HCM - Ảnh: TỰ TRUNG
Đánh thuế vàng có thể phản tác dụng
Chuyên gia tài chính Trần Trọng Đức, CEO của Virtus Prosperity - công ty tư vấn tài chính độc lập, cùng nhận định việc đánh thuế vàng không phải là giải pháp phù hợp để hạn chế đầu cơ hay bình ổn thị trường.
Ông Đức cho biết động cơ mua vàng của người dân không đơn thuần là đầu cơ để hưởng chênh lệch giá, mà chủ yếu xuất phát từ nhu cầu tìm kiếm một nơi trú ẩn an toàn cho tài sản. "Đa phần người dân mua vàng ở thời điểm giá đã lên rất cao và họ sẵn sàng chấp nhận trả mức chênh vài triệu đồng mỗi lượng vì niềm tin rằng vàng là kênh bảo toàn giá trị tốt nhất", ông nói.
Vì thế, biện pháp này thậm chí có thể phản tác dụng, làm gia tăng tâm lý bất ổn và đẩy rộng thêm chênh lệch giá. Bởi, theo ông Đức, khi giá vàng trong nước đã cao hơn thế giới, việc đánh thêm thuế chỉ càng làm nới rộng khoảng cách chênh lệch, vô tình kích thích hoạt động buôn lậu hoặc trục lợi trong giao dịch vàng.
Theo ghi nhận của Tuổi Trẻ, trong bối cảnh thị trường biến động mạnh, nhiều người đã chuyển hướng sang mua vàng thông qua các kênh phi chính thức, "chợ đen".
Các hội nhóm này mọc lên như nấm, thu hút hàng chục nghìn thành viên tham gia trao đổi và xuất hiện các giao dịch mỗi ngày. Trên thị trường tự do, giá vàng SJC từng có thời điểm được đẩy lên tới 175 triệu đồng/lượng rồi sau đó sụt xuống khi giá thế giới hạ nhiệt.
Chuyên gia cho rằng thay vì áp thuế, nên tập trung vào hai giải pháp then chốt: đồng bộ hóa giá vàng trong nước với thế giới và tăng cường giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng. "Cần kiểm soát chặt chẽ hơn các doanh nghiệp kinh doanh vàng để ngăn chặn tình trạng làm giá và tạo khan hiếm giả. Chỉ khi người dân giao dịch mua bán được theo đúng nhu cầu trong một thị trường minh bạch, tâm lý và hành vi của người dân mới ổn định lại", ông Đức nhấn mạnh.
Bàn thêm chuyện thu thuế VAT 10% trên hóa đơn với vàng, TS Ngô Minh Vũ, giảng viên khoa ngân hàng Đại học Kinh tế TP.HCM, cho biết nếu mục tiêu là ngăn tình trạng vàng được dùng như phương tiện thanh toán cạnh tranh với tiền đồng, thì việc áp thuế VAT là hợp lý. Thuế này sẽ khiến chi phí sử dụng vàng trong giao dịch tăng lên, từ đó làm giảm động cơ dùng vàng như công cụ trao đổi.
Tuy nhiên, nếu mục tiêu là giảm đầu cơ vàng thì cách đánh thuế VAT lại không phù hợp. Về bản chất, trong trường hợp này vàng được xem là một loại tài sản tài chính có khả năng sinh lời cho nhà đầu tư, chứ không phải hàng hóa tiêu dùng. Việc áp thuế VAT đối với tài sản tài chính là không hợp lý và cũng không hiệu quả trong việc giảm đầu cơ.
Theo ông Vũ, nếu muốn hạn chế hoạt động đầu cơ, biện pháp phù hợp hơn là đánh thuế trên phần chênh lệch giá, tương tự như thuế áp dụng trong giao dịch chứng khoán. Khi mỗi lần mua bán đều phát sinh chi phí, hoạt động đầu cơ ngắn hạn sẽ giảm. Tuy nhiên, Việt Nam hiện gặp khó khăn trong việc triển khai, do phần lớn giao dịch vàng vẫn diễn ra tại các tiệm vàng, chưa có hệ thống giao dịch tập trung để xác định rõ giá mua và giá bán.
"Vàng chỉ mới trở thành tài sản đầu cơ trong thời gian gần đây, còn trước đó vẫn chủ yếu được xem là kênh đầu tư và tích trữ giá trị lâu dài. Vì vậy, việc hạn chế hay đánh thuế nhằm ngăn người dân mua vàng để tích trữ là không hợp lý, đi ngược lại cơ chế thị trường, nơi người dân có quyền lựa chọn tài sản để bảo toàn giá trị", ông Vũ nhận định.
Muốn giảm đầu cơ vàng, phải tạo kênh đầu tư hấp dẫn hơn
Bên cạnh việc ổn định thị trường vàng, chuyên gia tài chính Trần Trọng Đức cho rằng cần phát triển các kênh đầu tư thay thế vừa hấp dẫn vừa an toàn hơn để thu hút dòng vốn trong dân. Như thị trường chứng khoán cần được hỗ trợ bởi các chính sách thúc đẩy các thương vụ IPO, tăng vốn từ các doanh nghiệp lớn, uy tín để củng cố niềm tin của nhà đầu tư.
"Trong vòng 6 - 12 tháng tới, thị trường chứng khoán Việt Nam hoàn toàn có khả năng thu hút mạnh mẽ dòng tiền nhờ kết quả kinh doanh khả quan, định giá hấp dẫn, cùng với kỳ vọng khi chính thức được nâng hạng lên thị trường mới nổi", ông Đức nhận định.
Về dài hạn, chuyên gia của FIDT cũng cho rằng cần thiết xây dựng niềm tin vào hệ thống tài chính và mở rộng các kênh đầu tư minh bạch, như chứng chỉ quỹ (trái phiếu/cổ phiếu) hoặc quỹ đầu tư vàng, để người dân có thêm lựa chọn sinh lời hợp pháp, an toàn hơn so với việc nắm giữ vàng vật chất.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận