28/05/2013 08:22 GMT+7

Chuyện tử tế tìm người tử tế

LÊ THANH DŨNG - TRẦN VĂN THỦY
LÊ THANH DŨNG - TRẦN VĂN THỦY

TT - Bộ phim Chuyện tử tế bắt đầu quay năm 1985, trong hoàn cảnh phim Hà Nội trong mắt ai vẫn bị cấm. Bối cảnh kinh tế xã hội năm 1985 đã thúc đẩy và dẫn dắt tôi chọn đề tài này.

Kỳ 1: Tai họa khó lường Kỳ 2: Những cuộc giải cứu minh bạch

ureKy4Zc.jpgPhóng to
Chiến sĩ Điện Biên, chiến sĩ Khe Sanh Trần Xuân Tiến (hình ảnh trong phim và trên apphich quảng cáo phim tại Pháp) - Ảnh tư liệu

Bắt đầu từ việc một bạn đồng nghiệp rất thân, anh Ðồng Xuân Thuyết, đổ bệnh ung thư. Chúng tôi quyết định bấm máy.

Năm sau anh ấy qua đời, một năm sau nữa giỗ đầu. Ðể quay nhân vật này phải mất khoảng hai năm.

Khi quay Ðồng Xuân Thuyết, nhiều người trong cơ quan phản đối, cho rằng anh ta không phải là nhân vật đặc biệt gì, không công trạng, không danh hiệu, không đảng viên. Nhưng rõ ràng đó là một thân phận con người nên chúng tôi quay. Ðồng Xuân Thuyết được mọi người yêu quý, không phải là một người quá tài giỏi, giàu có hay có chức quyền gì nhưng cách sống tình nghĩa, chân thành của anh làm mọi người thương và tin...

Vâng, chúng tôi theo đuổi nhân vật này hai năm, mở đầu là Thuyết và kết thúc vẫn trở lại Thuyết.

Rồi tôi nghe những câu chuyện về người bệnh phong đã bị rẻ rúng miệt thị, những ông bơm xe là thượng tá, trung tá đã tham gia chiến tranh và có công lao...

Cả đời tôi chưa bao giờ làm một bộ phim mông lung như bộ phim sau này gọi là Chuyện tử tế.

Ðể làm bộ phim này, anh em trong đoàn làm phim bảo nhau “làm gì biết nấy”. Anh Hồ Trí Phổ tạm viết một kịch bản với cái tên là Ði từ nỗi đau của con người - nộp cho lãnh đạo hãng. Nó chỉ là một đề cương nói về tình yêu và sự bất hạnh, về thầy thuốc và bệnh nhân, về những người bị bệnh phong và các vị nữ tu...

Kịch bản đích thực là không có, nó chỉ dần hình thành trong đầu của đoàn làm phim.

Những phận người của một thời

Chúng tôi nghĩ rằng trong phim này phải có một anh xích lô, có một tâm trạng hay gia cảnh gì đấy. Chúng tôi đi tìm một anh xích lô ở ga Hàng Cỏ. Giữa những người đạp xích lô đang đứng chờ khách, có một anh cao to đẹp trai, tóc xoăn, mặc quần jean rách. Mấy anh em trong đoàn bảo nhau chắc là nó cà chớn thế nào chứ trông thế này đâu phải dân đạp xích lô. Chúng tôi đến bên cạnh và hỏi:

- Xin lỗi anh, anh có chở khách không?

- Có ạ, em đang chờ khách đây.

- Thế anh là dân xích lô chuyên nghiệp hay là...

- Em làm thật để kiếm sống, em nuôi các cháu và gia đình em chứ ạ.

- Thế anh có thể cho chúng tôi quay anh một đoạn được không?

Lúc bấy giờ chúng tôi chỉ nghĩ đơn giản là đưa anh ta ra con đường trước công viên Thống Nhất quay cận cảnh, trung cảnh, toàn cảnh mà chưa có ý gì trong những cảnh đó cả. Nhưng khi đến trước cổng công viên thì trời đổ mưa, cả bọn kéo nhau vào quán uống nước chờ trời tạnh. Chúng tôi hỏi những câu xã giao, anh tên gì, những năm chiến tranh anh làm gì. Anh mới kể là chiến sĩ an ninh khu ủy Khu 5 - mà tôi cũng ở trong Khu 5. Lúc ấy vợ anh cũng vào và làm bác sĩ. Sau khi chiến tranh kết thúc, anh làm sĩ quan bảo vệ trong phái đoàn bốn bên ở trại Davis.

Tôi sững người và nghĩ, một thằng ất ơ ngoài đường không hỏi thì thôi, hỏi ra lại là người đã từng công cán như thế. Ðây không phải chuyện đùa nữa rồi, tôi nói:

- Thôi, anh em uống nước đi, đêm nay về nghĩ xem quay cái gì thì quay, viết gì thì viết chứ bây giờ mà quay ngay thì không biết quay cái gì.

Cách làm bộ phim đó là... vừa đi vừa tìm, vừa làm vừa nghĩ mà không có cái gì trước cả. Khi quyết định mời Lê Văn Long quay phim chính - cũng chờ nắng chờ mưa như thế, tôi hỏi chuyện:

- Quê cậu ở đâu?

- Quê em ở Thường Tín. Anh không biết chứ em mà về làng thì oai lắm. Làng em nghèo, toàn chăn vịt, trồng lúa, trồng khoai, làm lặt vặt thôi. Có mỗi em là quay phim...

Sau đó về nhà cậu ấy chơi, cậu ấy mới kể:

- Hồi bé em đi chăn vịt, có lần mệt quá nên em chui vào một cái lều ngủ, thế là vịt sục vào ruộng ăn lúa của hợp tác xã. Các bác ủy ban ghi vào lý lịch như thế nên em không thi được vào trường đại học nào cả. Em thi đại học nào cũng trượt vì lý lịch, về sau loạng quạng thế nào thi được vào trường điện ảnh. Bỗng dưng trở thành quay phim nên em oai nhất làng (lúc bấy giờ trường điện ảnh mới là trung cấp).

Từ hiện trường trở về, tôi vào ngay phòng nhân sự, bảo họ đưa lý lịch của Long. Quả nhiên trong lý lịch của Long, người ta có ghi như vậy!

Câu chuyện Long kể tưởng là chơi nhưng tôi thấy đau quá, vào thời điểm đó chủ nghĩa lý lịch vẫn còn vô cùng nặng nề. Vấn đề không chỉ là của cá nhân Long mà còn là của cả xã hội. Chủ nghĩa lý lịch đã kìm hãm đất nước, ly tán lòng người.

Tại sao một chi tiết nhỏ như vậy mà làm người ta bị sốc? Vì nó đã đụng chạm đến những chuyện một thời đã làm tan nát đất nước này, mà nó cũng kỳ quặc nữa.

Sau đó Long kể chuyện ngày xưa ở Trường Tô Hiệu, huyện Thường Tín anh có học một thầy giáo dạy toán tên Lê Văn Chiêu - một thầy giỏi phải bỏ nghề dạy học đi bán rau. Một trí thức đi bán rau - đấy không chỉ là chuyện của ông Lê Văn Chiêu...

Ðưa chúng tôi đến chợ đầu ô phía cuối đường Bạch Mai, Long chỉ một người bán rau và nói:

- Ðấy! Ðấy là thầy giáo của em!

Sau đó tôi nhờ Long đến nhà thầy Chiêu thưa chuyện, xin phép để được quay.

Thầy Chiêu bảo:

- Ðược rồi, khi nào các anh muốn quay thì báo trước. Tôi đi chợ về, tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo, pha trà, nói chuyện để các anh quay phim.

Thuyết phục kiểu gì ông cũng không cho quay ở chợ.

Những cảnh trong phim trông đơn giản nhưng để quay được thì rất phức tạp, vì phải làm sao mà quay được khi ông không đồng ý.

Cái gì tôi cảm thấy cần và có ích thì bằng mọi cách tôi sẽ làm bằng được. Tôi bảo với Long:

- Ngày kia sẽ quay nhưng em phải ở nhà, không được đến hiện trường.

Tôi nhờ một người quay phim khác, anh Nguyễn Trung Hiếu. Tôi bảo Hiếu giả vờ như quay cảnh du lịch, quay phong cảnh gì đấy, đứng quay lưng về phía ông Chiêu và ở tư thế có thể xoay người 360 độ. Ðấy là tất cả những cảnh quay trộm. Sau này phim ra, tin đồn đến tai ông Chiêu, ông đã tìm đến Trường đại học Bách khoa mua vé vào xem và mất ngủ mấy đêm liền. Ông đã gọi Long đến và nói:

- Tôi rất buồn vì người ta nói các anh đã quay phim tôi. Tôi không muốn bêu riếu chế độ. Nhưng rồi nghĩ đi nghĩ lại, tôi thấy các anh chẳng nói điều gì sai đâu.

PEGKzbAO.jpgPhóng to
Báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật số 51 ra ngày 25-12-1988 đưa tin phim Chuyện tử tế đoạt giải Bồ câu bạc LHP Leipzig 1988. Phim được hơn 10 đài truyền hình lớn trên thế giới mua bản quyền và được chiếu rộng rãi ở châu Âu, Nhật Bản, Úc và Mỹ - Ảnh tư liệu

Sống với nỗi đau của người đời

Khi nằm ở Bệnh viện Bạch Mai tôi viết được khá nhiều, hầu như trong mười ngày nằm viện chờ kết quả thử máu, chiếu chụp..., tôi đã viết xong lời bình tương đối ưng ý.

Lúc đó sổ khám bệnh của tôi đăng ký ở Bệnh viện Việt - Xô. Ở đó được ưu ái hơn, một phòng nhiều nhất chỉ có ba, bốn giường và được phục vụ chu đáo chứ không ồn ào nhếch nhác như Bệnh viện Bạch Mai - một bệnh viện, thời đó của thập loại chúng sinh. Phòng bệnh tôi nằm rộng như cái hội trường, có đến mấy chục giường, người bán hàng vào tận nơi rao: “Ai xôi đây!”, “Ai nước đây!”...

Lý do quan trọng nhất để tôi viết lời bình trong Bệnh viện Bạch Mai lại chính là thế. Nằm ở đây tôi mới thấu hiểu ra rằng ở trên đời này không ai tự mình dại dột bỏ cái sự sang trọng, cái đầy đủ, cái quyền thế của mình để lựa chọn cuộc sống như của người thường.

Ở đoạn cuối phim, tôi có viết rằng: Chỉ có sống cuộc sống của người đời, chia sẻ những nỗi buồn và niềm vui của người đời thì may ra mới tìm được, hiểu được, nghĩ được và làm đúng được đôi điều.

Hình ảnh trên phim lúc bấy giờ là cảnh chúng tôi ngồi trên ôtô, nhai kẹo cao su, hút thuốc lá, còn người dân thì khổ sở lay lắt ở trên đường, người đẩy xe bò, người gồng gánh. Hình ảnh ấy đi với lời bình ấy.

Nhiều người nhận xét đây là bộ phim mà chúng tôi tự mang thân xác mình ra để giễu cợt. Ngay từ đầu phim đã thế, khi bị người chủ lò gạch xua đuổi thì chúng tôi bảo: Ừ, nghề của chúng tôi cũng chỉ là nghề hèn, nghề mọn. Hèn vì nghĩ nhiều mà không dám nói ra, mọn vì cái làm ra thì không mấy ai cần đến.

...Thế rồi cuối năm 1987 bộ phim Chuyện tử tế ra mắt. Bộ phim được chiếu rộng rãi, trong Nam ngoài Bắc. Ðến lượt Hà Nội trong mắt ai “ăn theo”, cũng được chiếu lại và cũng là lần đầu tiên trong lịch sử phim ảnh Việt Nam có chuyện chiếu phim tài liệu mà bán vé lấy tiền.

Trích lời bình phim Chuyện tử tế

* Từ rất xa xưa, cha bác có dạy rằng: Tử tế có trong mỗi con người, mỗi nhà, mỗi dòng họ, mỗi dân tộc. Hãy bền bỉ đánh thức nó, đặt nó lên bàn thờ tổ tiên hay trên lễ đài của quốc gia. Bởi thiếu nó, một cộng đồng dù có những nỗ lực tột bực và chỉ hướng cao xa đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn. Hãy hướng con trẻ và cả người lớn đầu tiên vào việc học làm người - người tử tế trước khi mong muốn và chăn dắt họ trở thành những người có quyền hành, giỏi giang, hoặc siêu phàm...

* ...Ðến như bọn trẻ con, đã có lần toét miệng cười và bảo chúng tôi rằng: “À! Các chú quay cái loại phim này, chúng cháu xem là chúng cháu hay buồn ngủ lắm đấy”.

Ðâu phải thế! Chúng tôi từng làm hàng trăm bộ phim: Nhân dân chiến đấu anh hùng như thế nào - Nhân dân quyết tâm sản xuất như thế nào - Nhân dân phấn khởi tin tưởng như thế nào - Những bộ phim đó đã đi vào lịch sử và một thời, đã mang lại vinh quang cho chúng tôi.

Nhưng phải công nhận rằng: chẳng có mấy bộ phim miêu tả nhân dân ăn ra sao? Nhân dân ở ra sao? Nhân dân đi lại sinh sống như thế nào? Và nhất là nhân dân nghĩ ngợi, bàn tán những gì?...

LÊ THANH DŨNG - TRẦN VĂN THỦY
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên