Ông đã theo chúa Nguyễn Phúc Ánh từ năm 17 tuổi, cùng với chúa và các tướng lĩnh khác lấy thành Bình Định, chiếm thành Phú Xuân, thu đất Bắc Hà về cho nhà Nguyễn, giữ chức tổng trấn thành Gia Định hai lần: từ 1812-1815 (triều Gia Long) và 1820-1832 (triều Minh Mạng).
Tượng Tả quân Lê Văn Duyệt tại lăng Ông (Bà Chiểu, TP.HCM) - Ảnh: Gia Tiến |
Kỳ 1: Bí mật ở biệt điện Trần Lệ Xuân Kỳ 2: Vụ án trung thần và nước mắt tiền nhân
Sóng ngầm triều chính
Sau khi vua Gia Long băng hà, Lê Văn Duyệt vẫn được vua Minh Mạng giao cho nhiều quyền hành trong triều đình và ông đã hoàn thành tốt trách nhiệm của mình. Tả quân Lê Văn Duyệt có công bình định các nước lân bang, cho xây dựng nhiều công trình để phòng bị đất nước và phục vụ đời sống nhân dân. Sau này dưới sự cai quản của ông, vùng đất phía Nam đã trở nên trù phú...
Thế nhưng cuộc đời Lê Văn Duyệt đã gặp một chuyện hi hữu liên quan đến người con nuôi của ông là Lê Văn Khôi. Năm 1833 Lê Văn Khôi nổi loạn chiếm thành Phiên An (Gia Định).
Kể rằng, trước khi có biến cố thành Phiên An thì mối quan hệ giữa vua Minh Mạng và Lê Văn Duyệt ở mặt công khai nào đó vẫn rất bình thường. Thậm chí Lê Văn Duyệt còn là một trong những vị quan được vua Minh Mạng nể trọng, mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 64 năm Minh Mạng thứ 11 (1830) có chép: “Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt dâng sớ xin về kinh thành chúc thọ.
Vua dụ rằng: “Xem lời trong sớ đủ thấy tấm lòng thành của khanh. Nhưng nghĩ khanh nay tuổi đã già yếu lại vừa mới khỏi ốm, chính nên tĩnh tâm để điều dưỡng. Vả lại, Gia Định là trọng trấn của một phương, khanh nên lưu lại làm việc, gia tân trù biện để trẫm khỏi phải lo nghĩ về phương Nam. Như thế hơn việc chúc thọ ở khuyết đình nhiều lắm”.
Thế nhưng, những cứ liệu lịch sử phía bên trong cho thấy có những “cơn sóng ngầm” giữa một “khai quốc công thần” triều trước và một vị vua thuộc thế hệ sau của một triều đại kế tiếp. Trong suốt quá trình làm quan của mình, tả quân Lê Văn Duyệt và vua Minh Mạng đã có những mâu thuẫn nhưng ngấm ngầm.
Trong số ấy có thể kể vài việc: việc có lẽ quan trọng nhất là trong cương vị của mình Lê Văn Duyệt đã ủng hộ con của hoàng tử Cảnh, chứ không phải hoàng tử Đảm (sau này là vua Minh Mạng) lên ngôi khi vua Gia Long băng hà. Rồi cũng chính ông đã xử chém Huỳnh Công Lý, cha đẻ một quý phi được vua Minh Mạng sủng ái.
Một điều khó chấp nhận khác với một vị vua là Lê Văn Duyệt từ triều trước đã từng được hưởng quyền “nhập triều bất bái” (vào triều không phải lạy) nên sau này ông không chịu lạy vua Minh Mạng. Cộng với khi hành xử quyền lực, nhiều lúc ông vượt quyền hoặc làm không đúng ý triều đình trung ương... Tuy nhiên, vị đại thần với công lao và quyền uy quá lớn khiến nhà vua cũng không thể làm gì cho đến khi ông qua đời năm 1832.
Án trên ngôi mộ
Năm 1835, sau khi triều đình dẹp xong cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi, Phan Bá Đạt ở Đô sát viện dâng sớ kể tội tả quân, xin truy đoạt quan chức, vợ con phải giải về Hình bộ xét tội. Minh Mạng dụ cho đình thần nghị xử.
Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 112 năm Minh Mạng thứ 16 (1835) chép về tội án của Lê Văn Duyệt như sau: “Duyệt vì lời nói và việc làm bội nghịch, có bảy tội đáng chém: 1- Sai người riêng của mình sang Diến Điện kết ngoại giao ngầm. 2- Xin đưa thuyền Anh Cát Lợi đến kinh thành để tỏ mình có quyền. 3- Xin giết thị vệ Trần Văn Tình để khóa miệng người khác. 4- Dâng sớ chống lại mệnh vua, có xin cho viên quan đã bổ thụ đi nơi khác được lưu lại và điều một viên quan đi làm việc khác khi đã có chiếu chỉ tuyên triệu. 5- Kết bè đảng và xin cho Lê Chất được thêm tuổi thọ. 6- Giấu riêng những giấy đóng sẵn ấn ngự bảo. 7- Gọi mộ tiên nhân là “lăng”, đối với người tự xưng là “cô”...
Vua dụ rằng: “Thế đủ thấy lẽ trời sáng tỏ công khai, đạo công tồn tại ở ta thực không thể bưng bít. Kẻ quyền gian gây vạ cả thiên hạ đều giận, mọi việc ác đều dồn vào, muôn miệng cùng nói như một, đủ tỏ là cái án đích xác, nghìn năm bất dịch. Vả, tội của Lê Văn Duyệt đếm tội cũng không kể hết, nói đến đau lòng, dù bổ áo quan mà phanh thây cũng không oan. Song nghĩ hắn chết đã lâu, trước chịu tội âm rồi, lại đã truy đoạt quan tước nắm xương khô trong mả nay cũng chẳng thèm gia đình.
Vậy sai đốc phủ Gia Định lập tức san mồ mả thành đất phẳng và dựng cái bia đá ở trên khắc tám chữ: “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ” (Chỗ hoạn quan lộng quyền Lê Văn Duyệt chịu tội) để nêu rõ tội danh sau khi chết mà làm sáng tỏ phép nước về sau này và để làm gương răn cho những kẻ quyền gian muôn đời...”. Mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định bị cuốc bằng và bị xiềng xích. Các ngôi mộ cha mẹ ông bị đục bỏ tước hiệu khắc trên bia. Có lẽ sinh thời, vị khai quốc công thần Lê Văn Duyệt khó mà nghĩ đến một bản án giáng lên chính ngôi mộ của mình...
Hồi kết từ hậu thế
Vụ án Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt kéo dài cho đến triều vua Tự Đức mới chính thức được chấm dứt. Người dâng sớ xin minh oan cho hai vị công thần là Vũ Xuân Cẩn, thân sinh Lệ Thiên Anh hoàng hậu (vợ vua Tự Đức). Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ tứ kỷ, quyển 2, Tự Đức năm thứ nhất (1848) có ghi: “Xuân Cẩn dâng sớ xin thu dụng các con cháu của Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Lê Chất...
“Nước nhà ta khi mới trung hưng, phàm các công thần tá mệnh, công liệt rất rõ rệt, đều được phong tước lâu đời, cúng theo vào nơi điếu đình. Còn những người có chút tài giỏi, tấc công lao cũng đều lúc sống có danh tiếng hiển vinh, lúc chết có thụy hiển tốt đẹp. Điển lễ báo đền người có công rất là ưu hậu.
Trong đó Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Lê Chất đều gặp hội gió mây, ruổi theo tên đạn, thân làm đại tướng, tước đến quận công. Khoảng năm Gia Long, Văn Thành vì không biết ngăn cấm được con, bực lòng tự tử. Văn Duyệt và Chất đều sau khi đã chết phát xuất ra án nặng đều phải truy đạt hết quan tước, xử phải tội lây. Cứ theo như án đã xử thì tội không thể chối được.
Nhưng xét đến nguyên nhân vị tội thì tình còn có thể đáng thương... Cúi xin gia ơn đặc cách, sắc xuống xét hỏi dòng dõi những người ấy, hiện nay còn người nào có thể dùng làm việc được thì lượng bổ cho chức hàm nhỏ, nếu không có tài cũng miễn cho ra lính và tạp dịch trọn đời, cho giữ việc thờ tự để tỏ lòng nhân hậu”. Khi sớ dâng lên, vua rất cảm lời nói, bèn sai bộ Binh lục sức cho các tỉnh Bình Định, Gia Định tra hỏi dòng dõi Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt tâu lên thi hành”.
Hai vụ án Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt được phản ánh trong mộc bản triều Nguyễn khá chi tiết như thế.
_______________
Mộc bản cũng cung cấp chứng cứ rằng từ ngày xưa, trong những buổi thiết triều, nội các triều Nguyễn đã hướng cái nhìn chủ quyền ra biển Đông...
Kỳ tới: Biển Đông trong những buổi thiết triều
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận