
Nhân dân miền Nam vận động cứu tế miền Bắc - Ảnh tư liệu
Trong khi đó nhiều địa chủ, thương nhân, công chức miền Bắc cũng hết lòng sẻ chia với đồng bào bị hoạn nạn.
Tấm lòng đồng bào miền Nam
Là một trong những chứng nhân lịch sử năm 1945, giáo sư - bác sĩ Trần Cửu Kiến kể lại đó là thời kỳ ông cùng một số thanh niên miền Nam theo học tại Đông dương học xá ở Hà Nội.
Tuy nhiên sau buổi lễ tưởng niệm Hai Bà Trưng tại trường (ngày 10-2-1945 âm lịch), ông và một số bạn bè trở về miền Nam vì tình hình chính trị rối loạn, Nhật đảo chính Pháp, sinh viên không thể nào an lòng ngồi ở giảng đường trong tình hình đồng bào miền Bắc chết đói khắp nơi.
Vừa về đến Sài Gòn, nhóm ông Trần Cửu Kiến tìm gặp bác sĩ Phạm Ngọc Thạch để báo cáo nạn đói khủng khiếp ở miền Bắc và bàn cách cứu trợ đồng bào. Bác sĩ Thạch trả lời thời thế đang thay đổi, Pháp đã bị lật, Nhật sắp thua, anh em ai về quê nấy, kết hợp tuyên truyền cách mạng với vận động cứu đói...
Sau đó họ đã nhanh chóng thành lập một ban cứu tế đồng bào miền Bắc. Ban đầu, bác sĩ Nguyễn Văn Thinh làm trưởng ban, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch làm phó. Đến khi thành lập lực lượng Thanh niên tiền phong thì bác sĩ Thạch làm trưởng ban cứu tế.
Tuy nhiên mấy tháng đầu việc chuyển gạo miền Nam cứu trợ miền Bắc gặp khó khăn. Đây là giai đoạn không quân Mỹ đang cấp tập ném bom các tuyến đường sắt và đường thủy nghi là quân vận của Nhật. Ngay tại Sài Gòn, nhiều ghe lúa miền Tây chuyển lên cũng bị quân Nhật trưng thu để đốt chạy Nhà máy nhiệt điện Chợ Quán.
Theo ông Trần Cửu Kiến, chỉ sau Cách mạng Tháng Tám thành công, nỗ lực cứu tế của miền Nam cho đồng bào miền Bắc mới khả thi. Ông Năm Đông, tức Dương Quang Đông, kể lại: trưa 25-8-1945, Xứ ủy Nam Kỳ họp bàn hai trọng trách phải làm ngay là cứu đói miền Bắc và rước tù Côn Đảo về đất liền.
Xứ ủy phân công ông Năm Đông phụ trách cứu đói vì ông đã hoạt động các tỉnh ở miền Nam, quen biết nhiều, thuận lợi kêu gọi đóng góp lương thực. Chỉ riêng tại tỉnh Trà Vinh, chính ông Hồ Văn Biện, thường vụ tỉnh ủy, đã tổ chức nhiều ghe đi rước tù Côn Đảo, đồng thời sử dụng các ghe biển lớn để chở gạo ra miền Bắc. Trong đó có các ghe Quốc Trì, Bạch Hổ, Thăng Long...
Riêng ông Trần Cửu Kiến về quê nhà ở Rạch Giá, Kiên Giang (cũ) để vận động đồng bào đóng góp lương thực. Tại nhà hát địa phương, ông đã kể lại những gì mắt thấy tai nghe về thảm nạn chết đói ở miền Bắc:
"Tột đỉnh của sự khốn cùng là nạn đói đang lan tràn cướp đi mạng sống hàng triệu đồng bào, đa số là nông dân và dân nghèo thành thị. Đất đai phì nhiêu mà dân chết đói! Do đâu? Do các thế lực cầm quyền đã áp bức tàn bạo và bóc lột đến xương tủy người dân không để cho họ sống bằng những chính sách buộc nông dân phải nộp hầu hết thóc lúa làm ra, lập các kho dự trữ lúa gạo cho chiến tranh, bắt dân nhổ lúa để trồng đay làm bao tải chở gạo đi cung cấp cho các mặt trận trong và ngoài nước".
Ông Trần Cửu Kiến còn kể thêm cảnh đồng bào phải chết đói thê thảm, đầy đường đầy chợ nhan nhản xác người, nhiều thôn xóm chết hết, không còn người sống để chôn người chết, ruồi nhặng từng đàn bao phủ xóm làng...
Tại buổi diễn thuyết, ông đã đề xuất biện pháp cứu đói nhanh là chuyển gạo miền Trung (thời điểm đó không bị nạn đói nặng nề như miền Bắc) bằng ghe tàu và xe lửa chạy được đoạn nào thì chạy ra miền Bắc. Đồng thời hạt gạo miền Nam sẽ được đưa ra trả lại khoản vơi đi cho miền Trung vốn cũng rất khó khăn.
Sau này các tài liệu như lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Mùa thu rồi ngày 23... đều ghi lại tấm lòng miền Nam với đồng bào miền Bắc. Các lãnh đạo cách mạng, những nhân vật trí thức lúc ấy đều nhiệt tình kêu gọi đồng bào san sẻ lương thực. Từ ông Trần Văn Giàu, Dương Quang Đông, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Trần Cửu Kiến, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng... đều tranh thủ vận động lương thực vì miền Bắc ruột thịt.
"Nhiều bà, nhiều cô đã khóc khi nghe tôi tả cảnh em bé vừa khóc vừa bú vú mẹ đã chết đói còn đâu ra giọt sữa nào" - ông Trần Cửu Kiến và nhiều bà con miền Nam vốn lúc ấy cũng rất nghèo khó đã về ngay nhà để xúc lúa gạo đóng góp.
Cuốn Lịch sử Tây Nam Bộ kháng chiến tập 1 (1945-1954) sau này ghi lại: Việc gửi gạo ra miền Trung và Bắc chỉ được thực hiện trong hơn một tháng, qua đường sắt là hơn 30.000 tấn và đường thủy là 16.000 tấn... Lẽ ra hạt gạo từ tấm lòng bà con miền Nam đến với đồng bào chịu đói nhiều hơn nữa nhưng bị trắc trở do hoàn cảnh lịch sử đất nước lúc ấy.
Trước Cách mạng Tháng Tám thì Pháp, Nhật cầm quyền rồi bom đạn chiến tranh. Sau đó quân đội Pháp lại nổ súng tái chiếm. Con đường vận chuyển lương thực bị đứt đoạn ách tắc...

Nỗ lực cứu đói của Chính phủ và đồng bào sau Cách mạng Tháng Tám thành công - Ảnh tư liệu
Nhịn bớt bữa ăn vì đồng bào đói
Khi thực hiện loạt bài viết này, chúng tôi đã được đọc, được nghe kể rất nhiều về nghĩa cử đồng bào. Đó là biết bao chuyện xúc động "lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều".
Ngay ở miền Bắc thời điểm ngập chìm trong khó khăn, người có cháo vẫn chia cháo, người có cơm chia cơm, người có việc làm mở vòng tay với người cơ nhỡ. Biết bao thương nhân, địa chỉ, công chức đã hết lòng vì đồng bào.
Ông Hoàng Giáp, tức Hoàng Tấn Anh (nguyên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn pháo binh 523, sư đoàn 304 từng tham chiến Điện Biên Phủ) những ngày còn khỏe mạnh kể đầu năm 1945 gia đình mình đã vận động được số tiền đủ mua 1.000 tấn gạo chia sẻ cho đồng bào bị đói. Các nhà buôn Trịnh Văn Bô, Nguyễn Sơn Hà, Bùi Hưng Gia, Trịnh Đình Kính... cũng đều xuất nhiều tiền vàng mua lương thực cho người nghèo.
Còn các bà Mai Hương, Phạm Thị Hiền... cựu chiến sĩ thành Hoàng Diệu thì cùng gia đình ngày đêm nấu cháo cứu đói. Những bát cháo loãng thời Tổ quốc gian nguy, nước nhiều hơn gạo nhưng cứu được mạng đồng bào.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, một trong những nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ mới là cứu đói quốc dân đồng bào. Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu vấn đề cứu đói lên nhiệm vụ đầu tiên trong sáu vấn đề cấp thiết.
Bác Hồ kêu gọi nắm gạo sẻ chia vô cùng ý nghĩa:
"...Tôi đề nghị mở một cuộc lạc quyên. Mười ngày một lần, tất cả đồng bào chúng ta nhịn ăn một bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại và phát cho người nghèo". Và chính Chủ tịch Hồ Chí minh đã đi đầu làm gương.
Cứ 10 ngày Bác nhịn ăn một bữa, nếu những buổi dùng cơm với khách trùng ngày nhịn ăn thì bác nhịn bù ngày hôm sau. Trong buổi khai mạc tại Nhà hát lớn Hà Hội về lễ phát động phong trào cứu đói, Bác đã đem phần gạo nhịn ăn của chính mình để đóng góp giúp đồng bào khó khăn...
80 năm đã trôi qua nhưng nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945 làm chết hơn 2 triệu đồng bào vẫn truyền đời hằn sâu trong lòng người Việt. Nhắc quá khứ không chỉ kể nỗi đau thương mà còn là bài học cho mai sau. Và bài học lớn nhất chính là tinh thần đồng bào đoàn kết, đùm bọc nhau vượt qua nạn đói và cả những năm dài ngập chìm trong chiến tranh, gian khó để dân tộc có được ngày hôm nay.
Tôi sinh ở thôn Cồn Mục, xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng (cũ), nơi từng chịu nạn đói thảm khốc năm 1945.
Ông ngoại tôi kể nhiều gia đình chết hết, thậm chí có cả dòng họ bị xóa sổ. Có đứa bé mẹ chết rồi, vẫn cố mút mãi đầu vú xẹp lép của mẹ và khóc lịm đi vì không có giọt sữa nào, rồi bé sau đó cũng chết vì đói. Ông ngoại tôi khi đó 7 tuổi, mất hết bố mẹ, anh chị em, chỉ còn ông và một người chị sống sót nhưng cái đói khiến họ lạc nhau.
Trước khi mất gần hết người thân, vì quá đói mà nhà ông ngoại tôi mỗi người đi một hướng tìm thức ăn rồi lạc nhau. Đến khi ông vô tình gặp mẹ ở chợ làng, thấy mẹ lả đi vì đói, ông tìm được ít gạo dặn mẹ chờ con nấu cháo nhưng khi mang cháo ra thì mẹ đã chết. Người ta kéo xác đi chôn ở đâu cũng không biết.
Người chết đói nhiều đến nỗi người ta phải mang ra bờ đê vùi xác. Nhiều năm sau, sóng to gió lớn tràn vào, có khi xương người lộ ra. Đến nỗi bờ đê thơ mộng của làng tôi mấy chục năm trước vẫn là nỗi ám ảnh của nhiều người khi phải đi đêm ngang qua.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận