![]() |
Con đường trên sông Đường và bên con thuyền cũ kỹ làm trạm gác, người phụ nữ thu tiền 2000đ/lượt đi - Ảnh: Hoàng Điệp |
13g chiều, trên đầu bãi, nơi con sông Hồng rẽ làm hai nhánh bao bọc doi đất có chiều dài 7km và chiều ngang nơi rộng nhất là 4km, chị Nguyễn Thị Liên (53 tuổi) và con gái Phương Thị Sâm (28 tuổi) đang tưới nốt thửa rau còn lại. Chỉ vào đám cải bẹ, chị Liên bảo: “Năm nay đám cải này không được giá, chỉ 1.000 đồng/kg, còn cải cúc cô thích cứ hái về ăn. Giờ chỉ trông chờ vào đám bắp cải kia thôi…”.
Không chợ, không cầu, không phà, không đường nối với đất liền, không trạm bán xăng, không có ô tô chạy…
Kẽo kẹt… xe bò Từ đầu xã đến cuối xã thỉnh thoảng mới gặp một chiếc xe gắn máy. Còn phương tiện chủ yếu vẫn là xe bò. Những con bò ở đây không chỉ có chức năng cày ruộng, nuôi lấy thịt mà còn là “động cơ”, là phương tiện vận chuyển hàng hóa trong xã. Xe bò đi mua rơm, xe bò chở nước phân đi tưới rau, xe bò chở rau từ ruộng qua bến sông để mang ra chợ. Chủ tịch xã Nguyễn Tài Thân bảo: “Trước đây có một nhà sắm xe công nông nhưng giờ Nhà nước cấm lưu hành nên thôi. Cả xã chỉ có một xe tải của ông chủ lò gạch”. Bởi vậy, cả ngày ở Minh Châu cũng không nghe thấy một tiếng động cơ. |
Tôi tìm đường xuống sông Đường. Vốn chỉ là một nhánh của sông Hồng chảy những tháng mùa mưa, còn mùa khô thì sông cạn, người ta có thể đi lại nên được gọi là sông Đường. Một con đường ngoằn ngoèo mới đắp bằng cát đi từ bãi soi của xóm 1, xã Minh Châu sang Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc.
Đi gần hết đường thì có một chị phụ nữ quắt queo đang đứng chống nạnh ở cạnh con thuyền máy cũ nát chạy ra chặn đầu xe bảo: Cho xin tiền đường. Tôi hỏi, đường nào? “Đường chị đang đứng ấy. Đường này là do nhà tôi đắp, ai đi qua tôi thu 2.000 đồng/lượt”.
Đó là chị Nguyễn Thị Thường, 33 tuổi, người thôn Vân Hà, xã Lý Nhân, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. “Sông này của chị à?”. “Không phải sông của tôi nhưng tôi thầu bến này. Mùa mưa tôi chở thuyền đưa người qua sông, mùa khô tôi hút cát để bán. Mỗi năm tôi phải nộp tiền thầu là 50 triệu đồng đấy”.
“Trung bình mỗi ngày chị thu được bao nhiêu?”. “Hơn 100.000 đồng. Một năm có tám tháng mùa khô, bốn tháng mùa nước. Mùa nước đi thuyền thì thu nhiều tiền hơn, 3.000 đồng/lượt”. “Thế có ai không trả tiền chị không?”. “Không, người ta hiền lắm, ai cũng trả hết. Đến bà già đi buôn trầu vỏ ngày nào cũng sang sông, đi bộ mà bà ấy còn trả…”.
Đúng lúc ấy, toòng teng một quang gánh, một bà già chân trần bám đầy bụi phù sa đi đến, lật từng vạt áo cánh nâu lần tìm những đồng xu lẻ. Đứng ở “đường” nửa giờ, gặp bao nhiêu người đều cần phải sang sông qua con đường này. Đó là người đàn ông đánh bò đi cày thuê với tiền công 100.000 đồng/ngày; là những chiếc xe bò chậm chạp sang Vĩnh Phúc mua rơm dự trữ chất đốt, thức ăn cho bò trong những ngày giá rét; là những người phụ nữ đi chợ về gánh gồng trĩu nặng một bên vai với bao nhiêu thứ cho cuộc sống, từ dầu, gạo, mắm muối đến hàng ti tỉ thứ dùng ở trong nhà...
Họ đều là người dân của xã Minh Châu!
![]() |
Đất bãi, trồng rau gì cũng xanh tốt, chỉ khổ là ít khi được giá và vận chuyển ra chợ khó khăn -Ảnh: Hoàng Điệp |
22 năm không được xem biểu diễn
Năm 2000, Minh Châu là xã cuối cùng của tỉnh Hà Tây (cũ) có điện. Những năm trước đó, cả xã dùng chất đốt và lấy ánh sáng chủ yếu từ dầu. Mà dầu ấy cũng mua ở bên kia sông vì chẳng có ai muốn mang hàng hóa về Minh Châu để bán. Năm 2005 mới có điện thoại không dây và có trạm viba mini, những năm trước phương tiện liên lạc chủ yếu vẫn là thư.
Nhưng điều buồn hơn là đã 22 năm nay không có một đoàn nghệ thuật biểu diễn lớn nào đến Minh Châu, những đứa trẻ lớn lên nếu không sang sông học trung học thì không bao giờ biết đến tiếng nổ của chiếc ôtô. Còn có những người đã làm mẹ của mấy đứa con nhưng vẫn chưa bao giờ thấy mặt một cô diễn viên.
LTS: Khi bài báo này lên khuôn thì tác giả nhận được thông tin từ ông Nguyễn Tài Thân, chủ tịch xã Minh Châu, cho biết trước tết mấy hôm Đoàn chèo Hà Nội về biểu diễn một đêm cho bà con xem, nhưng diễn vở gì thì anh không nhớ vì công việc quá bận bịu. Và đó là suất diễn đầu tiên trong 22 năm trở lại đây! |
Chị Lưu nói xong câu cuối cùng với tôi, lại tong tả quẩy đôi thùng sơn gánh nước đi tưới rau.
Đất liền còn xa
Kể từ ngày nhóm dân vạn chài neo đậu lại bãi soi này sinh sống đến nay đã trải qua 13 đời. Dân Minh Châu ngày càng đông đúc. Vị chủ tịch xã cho biết ông năm nay 40 tuổi và trong đời đã chứng kiến những cuộc di dân rất lớn thoát ly doi cát này.
Lần đầu tiên là năm 1972, sau trận lũ lụt lịch sử cả xã chìm trong nước. 1/3 số dân của Minh Châu chuyển sang xã Tây Đằng (ở chủ yếu thôn Liễu Châu). Năm 1989, Minh Châu lại nhận được sự chỉ đạo của huyện để đi xây dựng vùng kinh tế mới, đó là xây dựng Nông trường VN - Mông Cổ với gần 200 hộ dân (sinh sống ở khu vực Đồng Mô bây giờ); tiếp theo là năm 1995 liên tục đi trong 6-7 năm đến các nông trường Sông Đà (Ba Trại), Suối Hai (Đồng Dứa), Nông trường 1A Quân đội và cả di dân vào Nam: Đắc Nông, Đắc Lắc…
“Người chăn bò... sạch sẽ hơn!” Bên một chiếc xe bò chở đầy thùng nhựa chứa nước thải, một đôi vợ chồng đang gánh từng gánh nước tưới cà chua trong bộ quần áo nhem nhuốc vì nhựa cà, nhựa rau. Chị tên Nguyễn Thị Lưu, 40 tuổi, cũng người xóm 1. Vừa cười vừa nói chuyện nhưng khi đưa máy ảnh để chụp thì chị xua tay, vớ ngay lấy cái gầu múc nước phân che ngang mặt: “Đừng chụp tôi, tôi ăn mặc xấu xí thế này trông ghê lắm. Ai lại chụp ảnh người đang đi tưới nước phân cho rau. Các “bá” ra ngoài kia chụp những người đi chăn bò kia kìa, người ta ăn mặc sạch sẽ...”. |
Vì thế, dân Minh Châu từ năm 1972 đến nay vẫn ổn định ở mức xấp xỉ 6.500 nhân khẩu với 1.300 hộ dân. Minh Châu chỉ còn 287ha đất canh tác nông nghiệp. Mỗi năm số diện tích đất này càng hẹp lại. Và công cuộc di dân không có dấu hiệu ngừng theo thời gian.
Trước khi sang đò để về “đất liền, đường liền”, tôi hỏi người dân mong ước nhất điều gì, chị Nguyễn Thị Lưu mơ ước: “Tôi ước nhiều lắm nhưng mong nhất là một cây cầu, một con đường hoặc chí ít một con phà. Đất đai Minh Châu tốt, ném cây gì xuống cũng mọc nhưng muốn mang bán đều phải sang sông, dậy từ 12g đêm chờ đò. Đồng tiền kiếm ra khó khăn mà cứ nuôi chủ đò và bây giờ là chủ đường. Có con đường hay có cầu bọn trẻ đi học sẽ đơn giản hơn, cơ hội học hành cho các cháu được mở rộng hơn”.
Nói đến phà, tôi bỗng nhớ Minh Châu trước đây đã từng có một con phà nhưng chỉ chạy được một thời gian ngắn thì hỏng. Sự mong mỏi, khấp khởi mừng của người dân chưa được bao năm bỗng tan thành sương khói. Còn ông chủ tịch xã thì rất nghiêm khắc: “Đồng chí đừng hỏi nhiều đến phà, nhưng tôi nói để đồng chí biết phà ấy chúng tôi sửa sắp xong rồi...”.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận