28/04/2007 06:30 GMT+7

VTV2 dựng lại vở kịch Cách Mạng: 3 người và 30 năm trước

NGUYỄN KHẢI
NGUYỄN KHẢI

TT - Tôi vốn chỉ viết truyện ngắn, tiểu thuyết, bút ký chứ chưa viết kịch để diễn bao giờ. Vở kịch Cách mạng là do thời thế cho tôi, phần đất phía Nam cho tôi.

A1RylfaF.jpgPhóng to
Hai nhà văn Lê Lựu và Nguyễn Khải (phải) chụp tại Đà Nẵng vừa giải phóng tháng 4-1975 - Ảnh tư liệu
TT - Tôi vốn chỉ viết truyện ngắn, tiểu thuyết, bút ký chứ chưa viết kịch để diễn bao giờ. Vở kịch Cách mạng là do thời thế cho tôi, phần đất phía Nam cho tôi.

Tất nhiên đó không phải là câu nói sáo. Trong năm 1975 và cả năm 1976, tôi vào Nam ra Bắc nhiều lượt, có thêm nhiều bạn, biết thêm nhiều người, nghe rất lắm chuyện, chuyện vui có, chuyện buồn có, nhưng mọi sự mọi việc trong tôi cứ rối tinh vì tôi đã bị cuốn vào dòng xoáy của thời cuộc, có muốn viết gì ngay lập tức cũng khó. Nhưng ông trời đã cho tôi một may mắn rất hiếm hoi, như đã bày đặt sẵn các chương hồi của một cuốn tiểu thuyết, một vở kịch với những nhân vật mới lạ, những cách nghĩ mới lạ, một cách kết cấu tự nhiên, uyển chuyển chưa từng bao giờ tôi có.

Cứ như có người viết sẵn, chỉ việc lia bút chép lại mà thôi. Là do cái vầng sáng chói lọi, nóng bỏng của một thời thế chuyển đổi khi chiếu vào từng gia đình và thân phận của mỗi người như có dịu đi rất nhiều, chậm lại rất nhiều nên tôi đã nhìn rõ dần những màu sắc riêng biệt của nó, những bước đi uốn éo, xuôi ngược của nó, nhìn được vào chiều sâu, vào gốc gác chứ không chỉ những cái phù phiếm bên ngoài.

Với cách nhìn toàn cục ở một tầm cao mới, tất cả đã trở nên sáng rõ, tôi bắt tay viết ngay tập ký sự Tháng ba ở Tây nguyên từ giữa năm 1976, được bạn đọc khen, và sau 30 năm đọc lại tôi vẫn thấy hài lòng những trang đã viết. Theo cái mạch nghĩ đã được khai thông, tôi vẫn bước tiếp trên vùng đất mới với cái nhìn chăm chú hơn, cách tiếp nhận tinh tế hơn, cảm được phần nào cái hồn của mọi diễn biến để viết tiếp vở kịch dài đầu tiên vào mấy tháng cuối năm 1976, vở kịch Cách mạng.

Trong kịch Cách mạng tôi rất yêu, rất thương, gần như hồn cốt của tôi với nhân vật văn học đã hòa làm một, có ba người.

Tôi vốn là đứa trẻ bị bỏ đi, không được thừa nhận, vì tôi ngày nhỏ chả đem lại một tí hi vọng gì cho các bậc sinh thành.

Ba chục năm sau, đứa con không mong đợi lại đột ngột trở về, là người lính trong đội quân chiến thắng, là nhà văn, nhà báo ngồi trò chuyện với các sĩ quan cao cấp của đội quân vừa bị tan rã, với các nhà trí thức có tên tuổi của Sài Gòn, và các chính khách chuyên nghiệp của nhiều khuynh hướng, lại được họ tin cậy vì tôi biết chia sẻ mọi sự lo lắng của họ, biết tôn trọng những ý kiến của họ khi phải bàn luận chuyện này, việc kia và cũng biết cách cân nhắc câu chữ khi muốn giúp họ có một cách nhìn rộng hơn, xa hơn để có cách hành xử tỉnh táo trong một tình thế mới.

Rồi cũng nhờ những cuộc trao đổi bình đẳng, tự do mà tôi cũng được hiểu lại, hiểu thêm nhiều chuyện nghĩ rằng mình đã từng hiểu, thay đổi được nhiều quan niệm, gạt bỏ được nhiều thành kiến sẵn có, nhận ra những bước đi mới mẻ của lịch sử để nhập cuộc luôn, uốn mình theo luôn.

Người thua thiệt nhất...

Trong kịch là anh Biên. Anh kém tôi bảy tuổi, là một người đàn ông đẹp nhưng khắc khổ, phong trần. Tôi gặp anh tại nhà một người bạn khi anh đang lâm vào một tình cảnh khốn cùng, một thằng lính bị vứt bỏ khi cái thể chế mà nó phục vụ đã tan ra từng mảnh. Là một đại úy trong bộ tổng tham mưu của quân đội chính quyền cũ nhưng anh vẫn có cái nhìn bình tĩnh, giọng nói mạch lạc, dứt khoát, dứt bỏ hẳn quá khứ, sẵn sàng đương đầu với những thử thách mới để hướng cuộc đời mình tới một chân trời do chính anh lựa chọn.

Những lời thoại của anh trong vở kịch là của chính anh nhưng anh nói ở những nơi khác, trong những trường hợp khác. Bằng sự tưởng tượng, tôi đã mời anh bước vào gia đình tôi, nói với những người ruột thịt của tôi những điều chính tôi cũng muốn nói. Nhưng anh nói thì có sức thuyết phục hơn vì anh là người thua thiệt nhất trong cuộc chiến này. Những câu hỏi của anh không một ai có thể trả lời, sự lên án của anh không ai có thể phản bác và chỉ anh mới buộc được những kẻ vốn sống bằng xương máu người khác phải cúi đầu trước những lời lẽ căm uất của một người bị lừa đảo từ đầu chí cuối.

Trong vở kịch này người chiến bại khi đã hiểu rõ mọi chuyện sẽ nói hay hơn người chiến thắng, những người trong cuộc nói về nhau và buộc phải thú nhận nhiều chuyện mập mờ của chính mình vẫn hay hơn một anh bộ đội đứng ngoài nói chõ vào. Bởi thế nhân vật Việt không có vai diễn, màn kéo lên thì Việt vừa đi khỏi. Khán giả chỉ biết Việt qua những lời thoại của người khác nói về anh ta. Mới vào nghề viết kịch mà đã tìm ra một ngón nghề tạm gọi là ngon lành cũng là một may mắn!

Ngài nghị sĩ yêu sự hòa hợp

Nhân vật yêu dấu thứ hai của tôi là anh Chương, là anh em con cô con cậu, thuộc tầng lớp danh gia vọng tộc của miền Bắc từ thời xưa. Anh hơn tôi sáu tuổi, có hai bằng tiến sĩ, một ở Pháp, một ở Anh. Về nước làm viện trưởng Viện ĐH Huế, rồi làm bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục, rồi làm thượng nghị sĩ của nhóm Phật giáo chống Thiệu, có tham gia nội các Dương Văn Minh tồn tại được mười mấy tiếng đồng hồ.

Anh là người có tinh thần dân tộc, tán thành chủ trương hòa hợp dân tộc, chấm dứt chiến tranh để VN mau chóng có một chính phủ thống nhất, mạnh mẽ, tự chủ, thoát khỏi sự lệ thuộc vào nước ngoài do thời thế ràng buộc. Nhưng anh vẫn nuối tiếc, than thở về sự rút chạy quá sớm, tan rã quá nhanh của quân đội Sài Gòn, đất đai không còn, chính quyền không còn thì còn gì để bàn bạc?

Thế là tôi đã có cơ hội mời ngay người lính khốn khổ là đại úy Biên tới đối chất với ngài thượng nghị sĩ cao quí về nhiều sự ở đời, về tất cả những gì mà cái thể chế này không thể tách khỏi nước Mỹ, không thể tách khỏi đội quân xâm lược của Mỹ. Đó là một trong nhiều đoạn đối thoại hay của vở kịch vì nó đã đào xới đến tận cùng cái ngày 30-4 tiền định và Biên đã nói: “Trước sau gì cũng sẽ có một ngày 30-4, không là năm nay thì sẽ là năm tới!”.

Đầu năm 1980, nhân tôi đưa cả vợ con vào sống tại TP.HCM, anh Chương có lại thăm và ở chơi cả buổi. Lúc này hai anh em đã thân nhau lắm, anh có kể khi quân đội của Thiệu phải rút chạy khỏi cao nguyên Trung phần về Nha Trang rồi chạy sâu vào mãi, chỉ dừng lại được ít ngày ở căn cứ Xuân Lộc thì cái chung cuộc ra sao đã có thể biết trước. Ở Sài Gòn bỗng nhiên xuất hiện rất nhiều cò chính trị, cò quốc tế, đại diện cho nhiều thế lực có dính dáng ít nhiều tới cuộc chiến ở VN.

Họ tìm gặp nhiều nhóm người VN tại chỗ để bàn bạc một giải pháp kết thúc cuộc chiến một cách êm ái nhất, một cách đẹp nhất, có nghĩa là mọi người đều có cái phần của mình, không ai bị tay trắng. Tức là các cường quốc không kể Âu hay Á, không kể gần hay xa đều không muốn một nước VN hoàn toàn độc lập và thống nhất. Họ rất thích giữ nguyên hiện trạng một VN nhưng là hai quốc gia, mỗi quốc gia có quyền lựa chọn cái thể chế chính trị mà mình yêu thích, những đồng minh mà mình tin cậy, lại có thể phát huy mọi tiềm lực vốn có của một cơ cấu kinh tế và xã hội đã được quản lý nhuần nhuyễn, quen thuộc.

Lại là một nước VN đã hòa bình, đã không còn bóng dáng quân đội nước ngoài, con đường gian nan của thời hậu chiến sẽ rút ngắn lại rất nhiều. Nước VN là của người VN, muốn thống nhất lúc nào mà chả được, ai dám can thiệp! Tính toán mới ngon lành làm sao! Nhưng nhóm anh Chương đã từ chối phắt. Anh bảo với tôi: “Mình đang là đồng minh tạm gọi là bình đẳng với một siêu cường là Mỹ trong nhiều chục năm mà nó cũng còn phải bỏ của chạy lấy người, bỗng dưng lại chìa tay cho mấy anh cò chính trị, nghèo hơn Mỹ nhiều, yếu hơn Mỹ nhiều để họ nhận tiền hoa hồng của cả hai phía, có mà điên!”. Tôi nhớ mãi lời nói của anh Chương lúc chia tay lần gặp năm ấy: “Tôi làm chính trị mắc rất nhiều sai lầm vì cái bệnh hoang tưởng nhưng chưa bao giờ tôi nhúng tay vào một việc làm bẩn thỉu nào. Tôi không bao giờ là Trần Ích Tắc (*).

Năm 1987, anh Chương 63 tuổi thì được tin Nhà nước cho phép anh đi Mỹ để đoàn tụ với vợ con và chữa bệnh. Anh biết tin được phép xuất cảnh cũng vui lắm nhưng chuẩn bị rất dềnh dàng, không vội, cũng không sốt ruột, có ý nấn ná ở lại VN thêm ngày nào hay ngày ấy. Ở đây còn có chuyện để nghe, có người để hỏi việc này chuyện kia vì vẫn là việc của nước mình, của người mình. Còn đã sang đến Mỹ, bước chân ra ngoài là đất của người ta, mình chỉ là kẻ ở nhờ.

Ở trong nhà thì vợ con phải nuôi một người chỉ còn là kỷ niệm cho tới chết. Đi để chuẩn bị cho một cái chết từ từ thì vội mà làm gì! Rồi cái bệnh khô nang phổi, bệnh cũ, kịch phát, anh phải vào bệnh viện. Nghĩ rằng chỉ nằm dăm bữa nửa tháng rồi lại ra như mọi lần, nhưng lần này chỉ nằm có mươi hôm là mất. Nắm tay anh lúc hấp hối chỉ có anh chị và các cháu chứ không có vợ con. Nhiều năm sau vợ con anh mới về lại VN, đem hài cốt của anh hỏa thiêu rồi trải dọc sông Sài Gòn. Một nắm tro bụi của trần gian lại trả về với trần gian, rồi đây nó sẽ hóa thân vào hình hài nào, vào số phận nào, thuộc miền đất nào? Cái kiếp sau ấy liệu có may mắn hơn cái kiếp vừa trải không?

Trong vở kịch còn có một nguyên mẫu thứ ba. Một tính cách nổi loạn đầy sự cuốn hút...

IexbH06f.jpgPhóng to

Một cuộc đấu tranh khốc liệt đang diễn ra trong chính các thành viên trong gia đình, với các diễn viên Nhà hát Kịch TP.HCM

Chuyện xảy ra trong một gia đình trí thức, “một gia đình biết nói dối một cách lịch sự nhất!”. Đột nhiên giữa gia đình tư sản ấy lại có một anh bộ đội tên Việt trở về và đem chủ nghĩa cộng sản (CS) đi nhận lại họ hàng. Những mâu thuẫn đã diễn ra khốc liệt trong chính mỗi thành viên gia đình. Bà Hoàng là một “quí tộc chửi CS rất có duyên”, bà bảo vệ cuộc đời cũ với một lý lẽ: “Một xã hội được gọi là văn minh thì phải được trang điểm bằng sự nhàn rỗi của một số người uống Martin và chơi mạt chược cả ngày”.

Thượng nghị sĩ Chương ngỡ ngàng trước cảnh tháo chạy quá nhanh của quân đội Sài Gòn nên dù không ưa CS nhưng lại gặp họ ở tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc: “CS được, nghĩa là người VN được!”. Sĩ quan Biên thà đi cải tạo dưới chế độ mới còn hơn tiếp tục chiến đấu cho những kẻ ăn không ngồi rồi của chế độ cũ. Còn cô con gái út tên Phượng đi theo cách mạng vì một lý do đơn giản: “ở đó tôi được tôn trọng”…

Cách mạng, năm 1978 được đạo diễn Trần Phương dựng cho Đoàn kịch Điện ảnh, diễn ở Hà Nội hơn 60 suất. Sau đó vì nhiều lý do khách quan nên vở bị xếp lại. Mãi đến năm 2003, đạo diễn Trần Ngọc Giàu mới dựng lại cho chương trình Nhà hát truyền hình (VTV) với các diễn viên của Nhà hát Kịch TP.HCM. Theo anh, đây là một kịch bản văn học hoàn chỉnh mà nếu sai thoại chỉ một từ thôi cũng sẽ phá hỏng tinh thần của tác phẩm. Tâm trạng của các nhân vật trong kịch là tâm trạng chính trị với nhiều câu chữ sâu cay, chính xác đã làm giật mình nhiều người và gần như “vắt kiệt” khán giả vì sự căng thẳng của nó.

_______________________________________________

Số sau: Người đàn bà kiêu hãnh của số đông

(*) Người trong hoàng tộc nhà Trần, đầu hàng Thoát Hoan để giữ lấy mạng sống.

NGUYỄN KHẢI
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên