![]() |
Trong giờ học, nhưng các SV vẫn chơi đánh bài như thế này! - Ảnh: Trần Uyên |
Nhưng tại sao cách thức dạy và học này lại tồn tại dai dẳng như thế và tại sao cứ phải miệt mài đọc - chép? Hãy nghe những người đã và đang ngồi trên ghế giảng đường nói...
Tường trình từ giảng đườngNỗi niềm người chép
“Mưa từ trên xuống” đã quá lâu!
Theo tôi, nguyên nhân là do giảng viên (GV) lên lớp còn phụ thuộc rất lớn vào giáo án đã được soạn sẵn. Phần lớn các thầy đều rất bận, lịch lên lớp thường kín tất cả các buổi trong ngày: một thầy sáng dạy năm 1, chiều dạy năm 2, tối dạy lớp tại chức, thậm chí 10 giờ đêm còn hẹn sinh viên đến nhà để hướng dẫn làm đồ án môn học thì hỏi rằng còn thời gian đâu mà soạn giáo án nữa!
Trong khi đó, đào tạo ĐH của chúng ta tồn tại quá lâu cách dạy và học theo kiểu “mưa từ trên xuống”. Cách dạy này đã ăn sâu và trở thành nếp “thâm căn cố đế” của nhiều thế hệ thầy trò mà không phải là ngày một ngày hai có thể thay đổi. Ngày nay ngoài việc tiếp thu tri thức từ phía người thầy, người học còn chịu tác động bởi rất nhiều nguồn tri thức khác nên cách dạy và học này hoàn toàn không còn phù hợp.
Ngoài ra, các trường ĐH ta đang thiếu giáo trình một cách trầm trọng. Rất nhiều môn học chuyên ngành hiện nay SV vẫn phải học chay. Những môn có giáo trình thì luôn rơi vào tình trạng quá cũ (không cập nhật được tri thức). Đó là chưa kể đến chất lượng cũng như tính năng sư phạm trong giáo trình còn rất hạn chế. Vì vậy cho nên để trả bài tốt nhất, SV không còn cách nào khác là phải ghi chép đầy đủ theo lời giảng của thầy.
Nếu nói rằng việc đọc chép hoàn toàn là do từ phía GV thì không đúng cho lắm, bởi vì SV hiện nay đối với việc học thường rất thụ động. Cũng có những thầy cô rất ít cho chép bài mà vào lớp là đặt câu hỏi ngay để cả lớp cùng thảo luận, nhưng việc này kết quả cũng không như ý muốn vì SV đâu đã chuẩn bị bài.
Vậy là thêm một tình trạng nữa xảy ra là SV nơm nớp lo sợ thầy cô gọi tới mình. Hai phương pháp trái ngược nhau hoàn toàn nhưng kết quả đều không như ý muốn. Và nếu giả sử có hỏi SV chọn một trong hai cách dạy ấy thì có lẽ đa số nhắm mắt chọn cách thứ nhất. Vì cách thứ nhất tuy mệt, thậm chí không hiểu bài nhưng còn có bài để coi hay có thể hỏi bạn.
Là SV năm 3 của một trường ĐH thuộc khối xã hội và đã từng “kinh qua” bốn kỳ thi học kỳ cả thảy, cho đến bây giờ tôi hoàn toàn tuyệt vọng về “giấc mơ” một kỳ thi không phải “gạo” bài, một kỳ thi không có những câu hỏi kiểu như “hãy nêu...”, “hãy trình bày...”, “cho biết...”... mà hễ cứ một học kỳ có khoảng bảy môn thì tới năm môn là lặp đi lặp lại điệp khúc cũ đó. Bản thân tôi thật sự rất sợ mỗi khi GV “tóm lại” cuối mỗi môn học bằng câu nói: “Tôi không yêu cầu nhiều ở các anh chị, chỉ cần học hết phần đề cương ôn tập là đủ”... Và SV lại phải trung thành với khẩu hiệu “nào ta cùng gạo”. Thế hệ SV này nối tiếp thế hệ kia như một cái vòng luẩn quẩn. SV sau những kỳ thi tất yếu sẽ trở nên thụ động và chây lười, chỉ biết “ăn sẵn”, không chịu tìm tòi chuyên sâu, kiến thức sau mỗi môn học không vượt quá những gì chép trong tập. Trách sao được SV chúng ta quá thụ động và không tự tin khi mà họ đã quen học tập trong một môi trường quá “tĩnh lặng” như vậy. |
Những năm ở phổ thông chúng tôi đã được rèn luyện khá kỹ “kỹ năng” chép đến nỗi mà (theo chúng tôi nghĩ) nó đã trở thành vô thức: cứ nghe thầy giảng (đọc, nói) là chúng tôi chép; cứ thấy trên bảng có cái gì là trong tập chúng tôi phải có y chang cái đó, sợ không có là bị nhắc nhở.
Ngoài ra chúng tôi còn được luyện tập theo kiểu “biết nghe lời” - làm theo những gì đã được “gà” sẵn, không nên có (hoặc phát biểu) những ý kiến riêng. Chúng tôi được luyện tập theo cách này với một thời gian khá dài, lên ĐH đương nhiên chúng tôi vẫn tiếp tục học theo cách cũ.
Không có kỹ năng hoặc không thể (không muốn?) tìm kiếm những thông tin, tài liệu liên quan đến bài giảng từ bên ngoài hoặc thật là vô ích (theo suy nghĩ của những người học chỉ để thi và lấy bằng?) khi còn có những người thầy dạy theo cách đọc - chép, chỉ ra đề và chấm điểm theo những gì đã đọc, đã chép.
Không có thói quen học theo nhóm, học ở thư viện hoặc “thư viện thì chật hẹp, sách vở nghèo nàn, mở cửa chẳng khác giờ hành chính là bao” (PGS.TS Phạm Duy Nghĩa) giữa thầy và trò còn một khoảng cách quá xa, trò không dám gặp và trao đổi trực tiếp với thầy, và thầy hình như cũng muốn tránh trò khiến chúng tôi chỉ học ở giảng đường.
Khi mà chúng tôi còn chưa biết tìm kiếm những thông tin trên Internet (nếu có tìm được cũng không dễ gì download, để phục vụ học tập) khiến việc học của chúng tôi, những người chưa có “tư duy tự học”, phụ thuộc rất nhiều vào GV - người quyết định “số phận” bài thi của chúng tôi.
Nếu ở giảng đường mà chúng tôi không chép thì chúng tôi học cái gì?
“Sáng tạo bậy bạ, điểm số sẽ tàn tạ” (?!)
Làm sao SV có thể không chú tâm chép từng lời “vàng ngọc” của GV khi mà buổi học đầu tiên GV đã tuyên bố: “Chỉ cần học giống những gì tôi giảng là đủ rồi. Trong sách có nhiều chỗ dài dòng lại còn có những vấn đề viết sai chưa chỉnh lý. Em nào làm bài mà chép giống trong sách như thế, tôi cho rớt hết”.
Không những thế nhiều GV còn dẫn chứng những bài học “xương máu” của các đàn anh đàn chị đã “sáng tạo bậy bạ” để rồi nhận lấy những “điểm số tàn tạ”. Trước những lời răn đe đó, thử hỏi có mấy SV dám phản đối khi GV say sưa đọc - chép chứ?
Đó là chưa kể giờ thực hành của SV quá ít. Hầu hết chương trình học của SV đều xoay quanh những giờ học lý thuyết. Không ai phản đối rằng nếu không có lý thuyết thì không thể thực hành.
Nhưng một chương trình học mà giờ thực hành chiếm chưa đến 1/3 thời gian học thì liệu có nên không? Và từ cái chương trình nặng nề lý thuyết đó cũng đã góp phần vào những nguyên nhân sinh ra “đứa con” đọc - chép như là một điều tất yếu vậy.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận