04/08/2008 16:45 GMT+7

Trăm năm ga Hà Nội

Theo QUỲNH LIÊNDoanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
Theo QUỲNH LIÊNDoanh nhân Sài Gòn Cuối tuần

Thật ra, nếu chính xác, thì ga Hà Nội đã được đúng 106 tuổi rồi. Cái nhà ga cổ nhất Việt Nam, mà tôi chỉ là thế hệ hậu sinh thứ năm, thứ sáu được theo các đoàn tàu ngược xuôi Bắc - Nam.

qMdrmgWv.jpgPhóng to
Ga Hà Nội xưa, chụp từ phía trong nhà ga
Thật ra, nếu chính xác, thì ga Hà Nội đã được đúng 106 tuổi rồi. Cái nhà ga cổ nhất Việt Nam, mà tôi chỉ là thế hệ hậu sinh thứ năm, thứ sáu được theo các đoàn tàu ngược xuôi Bắc - Nam.

Trải qua bao chế độ, thời cuộc thăng trầm, nhà ga giữa lòng thủ đô này là chứng nhân cho những cuộc chia ly và trùng phùng, chiến tranh rồi hòa bình của đất nước. Và bây giờ, nó lại tiếp tục chứng kiến khát vọng đổi thay, phát triển của bao con người Việt Nam…

Được khánh thành vào cùng một năm (1902) và cùng là ý tưởng của viên toàn quyền Đông Dương bấy giờ, nhưng ga Hà Nội thiệt thòi hơn người anh em song sinh cầu Long Biên, vì ít được người đời để mắt tới. Người ta ít biết về vị trí quan trọng, về mặt lịch sử, văn hóa của một nhà ga hơn trăm tuổi trong lòng thủ đô.

Tòa lâu đài giữa thủ đô

Tôi lặng lẽ lần giở lại lịch sử xưa. Các cụ già Hà Nội vẫn kể rằng khu đất xây dựng ga Hà Nội thuộc thôn Tiên Mỹ, huyện Thọ Xương của kinh đô Thăng Long xưa. Vài trăm năm trước, cái nền đất mà ga Hà Nội tọa lạc bây giờ là một bãi đất hoang cỏ lác, cỏ trấu mọc um tùm. Những anh lính lệ hoặc những kẻ làm công cho nhà quan, phủ chúa thường đến đây cắt cỏ về chăn ngựa, chăn voi. Rồi bãi đất hoang ấy theo thời gian biến thành cái chợ cỏ lúc nào chẳng ai hay.

Ngày đó, các bà các cô bận quần lĩnh, răng đen gánh gồng hai vai là những bó cỏ đem bán. Gánh cỏ lặc lè, hai chân các bà các cô choãi ra như vạt tép. Cái chợ ấy gọi là chợ Hàng Cỏ. Đến năm 1900, cái chợ cỏ ấy vẫn còn, con tàu và nhà ga cũng chỉ là ý tưởng mới mẻ của một số người đến từ phương Tây. Và sau đó, ý tưởng nhanh chóng được bắt tay thực hiện

Năm 1902, ga Hàng Cỏ (năm 1976 đổi thành ga Hà Nội) mới ra đời (khánh thành tháng 4/1902). Từ đây, các tuyến đường sắt lần lượt được hình thành, nối thủ đô Hà Nội với mọi miền của đất nước. Ban đầu là tuyến đường Hà Nội - Lạng Sơn rồi Hà Nội - Hải Phòng (1903), Hà Nội - Lào Cai (1905). Hơn ba chục năm sau, con đường sắt xuyên Việt được hình thành vào năm 1936.

rduRrYdQ.jpgPhóng to
Ga Hà Nội hôm nay
Bây giờ, tôi lần giở lại những bức ảnh chụp ga Hà Nội vào các năm đầu tiên của thế kỷ XX, mặc dù chúng không phải là ảnh gốc, phần do chụp lại phần do kỹ thuật scanner đồng lõa với thời gian để phả lên đó một lớp sương mờ, nhưng vẫn dễ dàng nhận ra đây là một tòa lâu đài diễm lệ theo lối kiến trúc Pháp.

Toàn bộ công trình ga Hàng Cỏ bấy giờ có diện tích lên đến hơn 21ha, trong đó người Pháp dành nửa diện tích để xây dựng nhà cửa, phần còn lại là sân ga, đường sắt. Sau rồi, do năm tháng và chiến tranh phá hoại mà cả kiến trúc, cả diện tích và hướng đường sắt cũng đã bị thay đổi hoàn toàn. Chỉ còn người già từng gắn bó cuộc đời với ga Hà Nội vẫn bồi hồi nhớ lại từng ngóc ngách, nơi hang chuột, vị trí những quả bom rơi trong chiến tranh phá hoại miền Bắc.

Những cụ ông, cụ bà ngày xưa làm ở ga Hà Nội, trong câu nói vẫn thể hiện sự trầm trồ ngưỡng mộ đối với kiến trúc của công trình này. Một điều đặc biệt, khi xây dựng nhà ga, người Pháp khéo léo xây thành những ô vuông chứa nước ngay trong quá trình đặt nền móng. Cả một hầm chứa nước ở dưới nền. Phải chăng vì thế mà thời đó ga Hà Nội mát như thạch. Thời bấy giờ, sảnh chính của ga Hà Nội còn là nơi tránh nóng cho người dân xung quanh.

Ban đầu, người Pháp chỉ xây một tòa nhà chính giữa sau đó mới xây hai tòa phụ hai bên. Trong những tháng ngày chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ, ga Hà Nội là một trong những điểm bị bắn phá ác liệt nhất. Năm 1972, một quả bom rơi trúng tòa chính và phá hủy hoàn toàn tòa nhà này. Tòa chính đã được xây lại và hoàn chỉnh năm 1976. Bây giờ, kiến trúc kiểu Pháp còn xuất hiện ở hai tòa nhà phụ nhưng cũng đã bị cải tạo ít nhiều.

Trùng phùng và ly biệt

NRvBuE6X.jpgPhóng to HlER88wb.jpg
Trong nhà ga Du lịch Việt Nam bằng xe lửa

Bố của người bạn tôi vẫn thường tâm sự rằng, ngày xưa, ông nội mình còn sống hay kể cho cháu con nghe, cuối thế kỷ XIX, người Hà thành vẫn quen tiếng côn trùng rả rích sau mưa. Lũ trẻ con vẫn đi chân đất, đầu trần bắt chuồn, bướm, chim về chơi. Lớp người lớn, trẻ con hầu như chưa hề biết đến tiếng còi tàu, những dải khói trắng phả ra từ con tàu đang còn nằm ở trời Tây xa xôi nào đấy.

Năm 1902, Paul Doumer còn làm toàn quyền, ông ta đã cho xây dựng hai công trình lớn, cầu Long Biên (cầu Doumer) và ga Hà Nội là một trong những nỗ lực trong việc kiến thiết cơ sở hạ tầng ở Đông Dương. Trước tiên, nó phục vụ cho ý đồ khai thác thuộc địa của Pháp. Nhưng đồng thời với việc làm này, người Hà Nội đã được nhìn thấy một nhà ga xe lửa bằng xương bằng thịt và những con tàu hỏa phun khói trắng.

Hơn trăm năm trước, những công trình này ít nhiều đã làm thay đổi bộ mặt của Thăng Long - Hà Nội. Và từ bấy giờ tiếng còi tàu đã trở thành máu thịt của người Hà Nội như một niềm xúc cảm nào đó. Ai nghe tiếng còi tàu mà không da diết. Đoàn tàu đi và trở lại mang theo nỗi thấp thỏm, niềm hạnh phúc của ngày hội ngộ cũng như nỗi khắc khoải, đau xót khi phải chia xa. Và ga Hà Nội là nơi chứng kiến hai thái cực tình cảm của con người. Đặc biệt, thời chiến tranh, ly loạn, hai thái cực cảm xúc này càng rõ ràng nhất.

Cùng với tham vọng khai thác tài nguyên thuộc địa, Pháp ra sức tuyển mộ những thanh niên Việt làm thợ, làm lính đánh thuê ở những nước thuộc địa của Pháp. Sân ga Hà Nội thấm đầy nước mắt của những mối tình ly biệt, người thân ly hương. Và từ nơi gác nhỏ ngõ Chân Hưng, gần ga Hà Nội, cố nhạc sĩ Dzoãn Mẫn (nhạc sĩ thuở sơ khai của nền âm nhạc Việt Nam hiện đại) đã nghe những tiếng còi xé nát tâm can “kẻ ở - người đi” mà đồng cảm để viết nên nhạc phẩm Biệt ly vang bóng một thời:

Biệt ly, nhớ nhung từ đâyChiếc lá rơi theo heo mayNgười về có hay?Ôi còi tàu như xé đôi lòng…

Sau này lại trong căn gác nhỏ ấy, và cũng những tiếng còi tàu ấy, Dzoãn Mẫn lại viết về những cuộc chia ly nhưng lần này là cuộc chia ly màu đỏ với Nhắn người chiến sĩ. Cách mạng tháng Tám, ga Hà Nội hòa mình với không khí chống thù trong giặc ngoài, ủng hộ Nam bộ kháng chiến của cả nước. Những ngày tháng này, sân ga nối tiếp các đoàn tàu ngày đêm chở quân Nam tiến. Bài Nhắn người chiến sĩ đã được cất lên, thay cho tâm sự của triệu triệu trái tim người hậu phương nhắn về tiền tuyến.

...Người bước đi, lòng ước mong hát khúc hoàn caNgười bước đi, về với danh thơm đời gấm hoaThiết tha có lời, nhắn mong tới người,Chiến thắng ngày về mang ngàn tươi sáng hiến cho đời.

Ga Hà Nội trong những cuộc đời

gDsusUNa.jpgPhóng to
Cụ Vũ Công Xước giờ đã 94 tuổi, đang hồi tưởng lại những tháng ngày còn làm ở ga Hà Nội
Khi tìm lại những bức ảnh lịch sử về ga Hà Nội, lục tung đống hồ sơ dày cộp còn lại ở ga Hà Nội, tôi đã tìm thấy một bức ảnh ấn tượng. Bức ảnh đề năm 1954, tiếp quản thủ đô. Hai người thanh niên trong bộ đại cán màu ghi (bộ đồng phục của ngành đường sắt thời bấy giờ), với hàng cúc chạy dài, nghiêm nghị nhưng không giấu được ánh mắt tự hào, rực rỡ.

Bây giờ, một trong hai người thanh niên trong ảnh đang ngồi trước mặt tôi. Tóc bạc lất phất trước trán, cụ Vũ Công Xước năm nay đã 94 tuổi. Cụ Xước là người cao tuổi nhất và cũng là người làm việc tại ga Hà Nội lâu năm nhất còn sống đến bây giờ.

Cụ Xước ngồi lọt thỏm trong cái ghế xếp làm bằng vải bạt, miếng vải cũng đã ố vàng vì thời gian. Thỉnh thoảng ở hốc mắt già mua rỉ ra những giọt nước khi cụ hồi tưởng lại những tháng ngày cụ đã sống với ga Hà Nội. Gần như trọn cuộc đời cụ Xước gắn bó với con đường sắt với những con tàu. Năm 1939, cụ Xước đã vào ngành đường sắt, làm thư ký gửi hàng giấy đỏ (Commis GV) ở ga Vinh rồi xếp ga (trưởng ga) ở ga Nghĩa Trang (Thanh Hóa), ga Than Mọi (Lạng Sơn).

Lần gặp gỡ đầu tiên với ga Hà Nội là khi cụ Xước theo đoàn về thủ đô tiếp quản ga Hà Nội (10-1954). Năm đó, cụ Xước 39 tuổi. Cụ vẫn nhớ về chuyến tàu ấy, chuyến tàu đầu tiên với cờ đỏ sao vàng, biểu ngữ từ ga Hà Nội chạy xuống Văn Điển đón bộ đội, cán bộ, nhân dân vào nội thành. Trong vòng ký ức không phai mờ của cụ Xước, ga Hà Nội năm đó là một cái xác nhà trống rỗng. Người Pháp tháo chạy để lại những toa tàu què cụt long cửa, thủng đáy. Trong sân ga, cỏ lún đầu người. Người Pháp, người thân Pháp luống cuống chạy trong hoảng loạn. Trong hoàn cảnh đó, cụ Xước còn nằm trong “ban chống di cư”. Những cán bộ đầu tiên như cụ vừa phải hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, nhiệm vụ bình ổn tâm lý hành khách vừa phải ra sức cải tạo, hàn gắn lại đường tàu, toa tàu đã bị hỏng.

Gia đình của cụ Xước có truyền thống làm trong ngành đường sắt và từng có giai đoạn gắn với ga Hà Nội. Trong những năm tháng chiến tranh hai miền Bắc - Nam, thế hệ sau như con gái, con rể cụ Xước, những công nhân hỏa xa - chiến sĩ ga Hà Nội đã sống và làm việc theo phong trào, khẩu hiệu “Qua sông không cầu, chạy tàu không ga”, “sống bám ga, bám tàu”. Họ đã viết lên bản hùng ca tuyệt đẹp để giữ vững huyết mạch giao thông.

Chào nhân chứng già nhất của ga Hà Nội, tôi đi tìm lại hậu thế của cụ. Ga thủ đô rõ ràng nhất trong ký ức của ông Nguyễn Đĩnh (66 tuổi) và vợ ông - bà Nguyễn Thanh Hải (cũng là con gái cụ Xước) lại là năm 1972 khi không lực Mỹ gia tăng oanh tạc Bắc Việt. Và ga Hà Nội được xem như những trọng điểm được bom Mỹ “chăm sóc kỹ càng” nhất. Ngày 21-12-1972, một loạt bom B52 đánh trúng ga. Cả Hà Nội rung chuyển, đứng trên gác ba, căn nhà phố Nguyễn Du, ông Đĩnh nhìn về bầu trời phía ga Hà Nội cuộn tung đầy những giấy, khói và lửa... Vội vã cuốn dải băng thanh niên xung kích lên tay, ông đau đớn chạy về nhà ga Hà Nội, nơi người vợ đang mang thai hai tháng, trong ca trực.

Ngày hôm đó là một ngày kinh hoàng nhưng thật may mắn đối với ông Đĩnh và cả ga Hà Nội nói chung. Bốn quả bom nhằm vào ga Hà Nội nhưng may thay tất cả nghìn người, cả công nhân, cán bộ đường sắt lẫn hành khách không có ai tử nạn hay bị thương. Ông Đĩnh vẫn không giấu được vẻ ngạc nhiên, kể rằng một quả bom rơi trúng tòa nhà chính của ga Hà Nội, còn phía ga B, ga Trần Quý Cáp hay còn gọi cửa số 9 Sinh Từ (nơi vợ ông làm việc) bị sức ép của bom. Ngay cạnh hầm trú ẩn của bà Hải là một hố bom hun hút nhưng quả bom kỳ lạ không nổ. Nó lặn sâu vào trong lòng đất như một điều bí ẩn của chiến tranh và hòa bình, của khát vọng sống và ý chí hủy diệt sự sống...

* * *

Bây giờ, hơn một trăm năm kể từ ngày tiếng còi tàu hụ đầu tiên vọng trên sân ga Hà Nội đã trôi qua như vệt khói mờ của lịch sử. Thời cuộc đổi thay, Hà Nội và nhà ga của mình cũng thay đổi. Những lần ngược xuôi Bắc - Nam từ sân ga cổ kính này, thế hệ tôi không còn ngồi với đoàn quân Nam tiến bi hùng, hay phải chia sẻ manh chiếu rách với những chị thương buôn chuyên “nhảy tàu” trong thời bao cấp khó khăn. Đa số ghế gỗ ê mông và đầy rận rệp ngày nào cũng đã được thay bằng những chiếc ghế da mềm, giường nệm trắng muốt cùng toa máy lạnh. Những chuyến tàu ì ạch 4-5 ngày, nhiều trộm cướp và bất trắc xưa cũng đã được thay bằng các chuyến tàu nhanh 30 - 32 giờ…

Một chiều hè, tôi lại vào ga Hà Nội, để đi chuyến tàu đêm lên miền biên ải Lào Cai. Cùng toa tàu với tôi, những du khách Tây đang háo hức khám phá miền đất mới. Nhưng có lẽ, họ đâu thể biết được đất nước tôi, dân tộc tôi đã trải qua bao cuộc máu lửa thương đau, bao ngày tháng thăng trầm nghèo khổ để có những buổi chiều bình yên trên sân ga như hôm nay.

Còi tàu đã hụ lên. Đoàn tàu rời ga Hà Nội, vùn vụt lao về phía trước như thế hệ trẻ chúng tôi luôn khát vọng những cuộc tiến bước, đổi thay và phát triển cho dân tộc mình…

Theo QUỲNH LIÊNDoanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên

    Tuổi Trẻ Online Newsletters

    Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

    Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất