18/11/2012 09:02 GMT+7

Thà mất chức mà dân no

PHẠM VŨ
PHẠM VŨ

TT - Trong tham luận mở đầu hội thảo “Đồng chí Võ Văn Kiệt với cách mạng VN”, ông Lê Thanh Hải - ủy viên BCT, bí thư Thành ủy TP.HCM - nhắc 1 câu hỏi của chú Sáu Dân: “Một là để dân đói, các đồng chí giữ nguyên chức vụ. Hai là dân no, các đồng chí mất chức. Chọn cái nào?”...

* Nhà thơ Nguyễn Duy: Chuyện nhỏ về một tầm vóc lớn

Hội thảo tổ chức nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt (23-11-1922).

Dxcvepty.jpgPhóng to
Thủ tướng Võ Văn Kiệt và công nhân trên công trường xây dựng trạm biến thế 500kv Pleiku ngày 3-11-1993 - Ảnh: Nguyễn công thành

Đã hơn bốn năm kể từ ngày cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt ra đi, nhưng ký ức về một vị lãnh đạo luôn đau đáu một chữ “dân” trong suy nghĩ, trong tình cảm, trong tư tưởng, trong quyết định vẫn luôn in đậm trong tâm trí những ai từng được làm việc với ông, được nghe ông nói và thấy những gì ông làm.

Sáng 17-11, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 90 ngày sinh của ông, Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Thành ủy TP.HCM và Tỉnh ủy Vĩnh Long đồng tổ chức buổi hội thảo khoa học “Đồng chí Võ Văn Kiệt với cách mạng VN”. Một lần nữa, chữ “dân” được nhắc đi nhắc lại trong hơn 90 bản tham luận, như từng được nhắc hàng vạn, hàng triệu lần trong cuộc đời của ông Sáu Dân (bí danh của ông Võ Văn Kiệt).

Tất cả đều vì dân, cho dân

Ông Võ Văn Kiệt tham gia cách mạng từ năm 17 tuổi, trải qua bao lửa đạn của hai cuộc kháng chiến nhưng tên tuổi, sự nghiệp của ông còn gắn liền với cuộc cách mạng trong thời bình, cuộc cách mạng mang tên đổi mới. Trong bản tham luận mở đầu hội thảo, ông Lê Thanh Hải - ủy viên Bộ Chính trị, bí thư Thành ủy TP.HCM - nhắc lại những câu chuyện mà từng người dân ở TP.HCM đều rung động khi nghe kể về Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt của những năm 1976-1981. Ấy là khi ông trực tiếp đến gặp những người trí thức đang có ý định rời Tổ quốc, nghe những tâm sự, góp ý rút cạn lòng của họ và nói: “Anh em cố gắng ở lại, trong vòng ba năm nữa nếu tình hình không thay đổi, tôi sẽ đưa anh em ra sân bay”. Ấy là trong một cuộc họp với lãnh đạo các tỉnh Tây Nam bộ bàn về giá mua lúa, nếu theo giá chỉ đạo của Chính phủ thì không mua được để xuống giống kịp thời vụ, ông nói: “Một là để dân đói, các đồng chí giữ nguyên chức vụ. Hai là dân no, các đồng chí mất chức. Chọn cái nào?”. Và tất cả đã thống nhất chọn cách thứ hai.

"Đảng gắn bó máu thịt với dân. Trên dòng sông cuộc sống, Đảng mà tách khỏi dân thì chẳng khác nào như cá bị ném lên bờ, chết là chắc"

Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt

Chỉ một nhiệm kỳ tại TP.HCM, Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt đã có hàng loạt chỉ đạo “xé rào” nhằm tháo gỡ bế tắc cho sản xuất và đời sống. “Nhiều người đã gọi đồng chí là “bí thư xé rào”, sau này lại gọi là kiến trúc sư của đổi mới” ông Lê Thanh Hải nhắc đầy tự hào về người tiền nhiệm của mình.

Ở vai trò một người nghiên cứu, giáo sư Trần Thành - nguyên viện trưởng Viện Hồ Chí Minh, Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh - phân tích cho đến khi giữ cương vị thủ tướng, ông Võ Văn Kiệt đã có hơn 50 năm trải nghiệm qua các lĩnh vực hoạt động, từ vận động chính trị, đấu tranh vũ trang, xây dựng và phát triển kinh tế... Ông đã lăn lộn trong dân, ăn cơm, mặc áo của dân, được dân cưu mang, che chở nên thấu hiểu nỗi cực khổ cùng tâm tư, khát vọng giản dị của họ: sau độc lập, tự do là miếng cơm, manh áo, ruộng cày. Sống trong dân, ông học nhiều ở trí tuệ của người dân. Họ không biết lý luận nhưng có cái nhìn rất sáng về cái đúng, cái sai, cái trúng, cái trật của cách mạng. Ông rút ra bài học: cái gì được dân đồng tình, ủng hộ là ta đúng, cái gì bị dân phản đối là ta sai. Một chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt là chính quyền được lòng dân, làm được cái mà người dân muốn. Ông hành xử theo cái minh triết ấy của người dân, trí tuệ của ông bắt nguồn từ trí tuệ của dân. Ông dám nói, dám làm bởi ông không có tham vọng cá nhân, tất cả đều vì dân, cho dân.

Vì thế ông Sáu Dân đã xông pha làm một trong những người tiên phong đi đầu cuộc đổi mới, cho đến tận ngày rời chức vụ khi đã 75 tuổi, vẫn chưa chịu nghỉ ngơi. Hào hứng với những cơ hội phát triển kinh tế nhưng ông không phút nào quên người nghèo, giáo sư Trần Thành nhắc lại một lời của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng lưu ý với Đảng: “Đừng để người nghèo bị gạt ra bên lề của sự phát triển, phải có những chính sách cốt lõi để giải quyết căn cơ vấn đề dân nghèo”.

Cùng chung ý kiến, tiến sĩ Phạm Văn Bính nhấn mạnh thêm bằng cách nhắc lại lời ông Sáu dân: “Đảng gắn bó máu thịt với Dân. Trên dòng sông cuộc sống, Đảng mà tách khỏi dân thì chẳng khác nào như cá bị ném lên bờ, chết là chắc”.

Luôn nghĩ cho dân, vì dân, lấy suy nghĩ, ước nguyện của dân làm suy nghĩ và cách giải quyết công việc của mình, trong ông không hề cạn kiệt ý tưởng, suy tư, luôn đầy ắp mong muốn, hoài bão cho dân giàu, nước mạnh, mọi người đều sống ấm no, hạnh phúc. Làm thủ tướng, ông Võ Văn Kiệt cũng suy nghĩ thống nhất với suy nghĩ của dân về việc dân, việc nước, việc ứng xử trước sau với người đang sống và người đã chết.

DDNQGve2.jpgPhóng to
Thủ tướng Võ Văn Kiệt với bà con dân tộc huyện Chư Pảh (Gia Lai) năm 1996 - Ảnh: TTXVN

Nước Việt Nam của mọi người Việt Nam

Đến từ quê hương ông Sáu Dân, ông Nguyễn Chiến Thắng - nguyên trưởng Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long - nhắc lại kỷ niệm những lần ông Sáu về thăm quê, ăn bữa cơm gia đình, hồn nhiên, xông xáo ở tuổi 80. Có lần nghe chuyện về một số cán bộ có thời gian cống hiến lâu năm nhưng bị nhiều nghịch cảnh, chưa được giải quyết chính sách, ông lập tức sắp xếp đến nhà thăm viếng, an ủi, lại yêu cầu cơ quan chức năng tìm hiểu, làm rõ.

Có người đặt câu hỏi tại sao ông lại đi thăm những gia đình có vấn đề, ông vui vẻ giải thích: làm cách mạng, có người may mắn, có người vô cùng khó khăn. Có người suốt mấy chục năm dũng cảm quật cường, không may bị bắt, tra tấn, tù đày, có những phút quá khắc nghiệt giữa cái sống, cái chết trong nháy mắt mà xiêu lòng. Có thể quá trình cách mạng chưa trọn vẹn nhưng không vì thế mà không giữ được tình đồng chí, tình người với nhau.

Ông Võ Văn Kiệt là như vậy, giáo sư Mạc Đường lặp lại câu nói nổi tiếng của ông: “Không ai chọn cửa mà sinh ra” tại công viên Tao Đàn từng tiếp thêm động lực cho bao thanh niên, học sinh, sinh viên TP.HCM thế hệ thứ tư để tiến đến tương lai bằng thực tâm, thực học, thực tài. “Đã có một thế hệ coi anh là thần tượng” - giáo sư Mạc Đường nhắc.

Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt từng viết: “Đất nước VN, giang sơn VN cùng mọi thành quả của nền văn hóa VN không phải của riêng ai, của một giai cấp hay đảng phái nào, mà là tài sản chung của mọi người VN, của cả dân tộc VN... Phải phát huy dân chủ cao độ, thực hành dân chủ thật sự, hòa hợp dân tộc rộng rãi. Mọi người VN không chỉ là chủ đất nước mà phải làm chủ thật sự, được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra và được thụ hưởng thành quả dân chủ”.

Thần tượng của nhiều thế hệ

Ông Nguyễn Trọng Minh, khoa lịch sử Trường ĐH Khoa học xã hội & nhân văn TP.HCM, tham gia hội thảo với đề tài “Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt với vấn đề sử dụng tri thức trong công cuộc đổi mới”. Bản tham luận đầy ắp câu chuyện của Bí thư Thành ủy TP.HCM Võ Văn Kiệt. Nghe nói có nhóm Thứ Sáu gồm các chuyên gia tự nhóm họp vào chiều thứ sáu hằng tuần, ông sắp xếp đến nghe, rồi lại mời ra tận Hà Nội để trình bày ý tưởng với Chính phủ...

Làm thủ tướng, ông càng lắng nghe nhiều hơn nữa những ý kiến của tổ chuyên gia tư vấn, những trí thức ở nước ngoài. Ông bảo: “Kinh nghiệm của nhà lãnh đạo là phải nghe rất kỹ ý kiến chuyên gia”. PGS.TS Phan Xuân Biên kể: ông Sáu luôn tôn trọng, lắng nghe, dù ý kiến của giới trí thức không phải lúc nào cũng đồng thuận, thuận chiều. Ông nói “nghe xuôi, nghe ngược, có khi nghe xốn cả lỗ tai” nhưng vẫn khuyến khích, cổ vũ những ý kiến tâm huyết...

Dấu ấn Võ Văn Kiệt sâu đậm như vậy, nên không chỉ có “thế hệ thứ tư” như lời giáo sư Mạc Đường nói, mà có thể nhận rõ ngay trong buổi hội thảo này: đã có nhiều thế hệ coi ông là thần tượng. Những gì ông để lại đến hôm nay vẫn còn là những bài học sống động, giá trị và tối cần thiết để phải nhắc lại.

_______________

Lời tòa soạn: Nhớ về một con người, nhà thơ Nguyễn Duy lại nhớ tới những chuyện nhỏ mà ông là người trong cuộc, đã nghe và đã thấy. Chuyện nhỏ về một chính khách nhưng lại vẽ nên một tầm vóc - tầm vóc Võ Văn Kiệt.

iDnq1C5y.jpgPhóng to
Nghệ sĩ Ea Sola trong Hạn hán và cơn mưa - Ảnh in trên giấy dó của Nguyễn Duy

Câu chuyện Hạn hán và cơn mưa

Tháng 9-1994, nghệ sĩ múa Ea Sola Nguyễn Thủy (quốc tịch Pháp, gốc Việt) từ Paris về Hà Nội dàn dựng vở múa Hạn hán và cơn mưa trên nền nhạc chèo truyền thống. Ðây là tác phẩm đầu tay mở màn một loạt dự định của Ea Sola “đưa nghệ thuật VN ra thế giới”. Kịch bản Hạn hán và cơn mưa đã được hình thành từ trước đó, sau nhiều năm Ea Sola đi nghiên cứu đề tài, chọn đối tác là Nhà hát chèo VN, đã được Bộ Văn hóa - thông tin hồi đó cho phép dựng vở. Ea Sola mời tôi viết lời cho các khúc hát chèo trong tác phẩm này.

Việc chuẩn bị công đoạn dựng vở đang thuận buồm xuôi gió, bỗng đường đột mắc kẹt vì một lý do lãng xẹt không liên quan gì tới Hạn hán và cơn mưa...

Ea Sola rất lo lắng. Nếu Hạn hán và cơn mưa không được dàn dựng thì bao nhiêu công phu suốt mấy năm lặn lội đi nghiên cứu, sưu tầm, viết dự án, kịch bản, tuyển chọn diễn viên, vận động tài trợ và lập trình cho vở diễn ở trong nước, ngoài nước... sẽ là công dã tràng. Vấn đề sẽ không chỉ là văn hóa nữa mà còn là kinh tế, pháp luật khi nghệ sĩ phải đối diện với tòa án về những hợp đồng biểu diễn tại các liên hoan nghệ thuật châu Âu bị đổ bể. Và đổ bể theo đó có thể là cả một sự nghiệp...

"Cái tế nhị ở đây là nhìn nhận đúng các giá trị, cái nào lớn, cái nào nhỏ. Có sự nhầm lẫn giữa lớn và nhỏ.

Cái tưởng lớn hóa ra nhỏ, cái tưởng nhỏ lại là lớn..."

Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt

Chứng kiến sự bối rối của Ea Sola, tôi chợt nghĩ tới một người. Một người có thể giải được nạn này. Ðó là ông Sáu Dân, tức đương kim Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc bấy giờ. Từ khi còn ở TP.HCM, ông Sáu đã gần gũi nhiều anh em văn nghệ sĩ chúng tôi một cách thân tình, bình đẳng, chân thực. Ông là một nhà lãnh đạo lịch lãm, phong cách ứng xử rất văn hóa, trân trọng tri thức và giới trí thức. Một nhà văn hóa bẩm sinh, văn hóa từ trong căn cốt. Ông chịu lắng nghe ý kiến từ nhiều phía, kể cả những ý kiến trái nghịch, và chịu ủng hộ cái mới. Nhiều người đã viết về ông ở góc độ này. Tôi coi ông là “người đánh thức tiềm lực”. (Tôi đã viết về ông trong hồi ức “Hành trình thơ Ðánh thức tiềm lực”, in báo Tuổi Trẻ số Tết Bính Tuất - 2006, và sách Ông Sáu Dân trong lòng dân, Nhà xuất bản Tri Thức - 2008).

Trở lại câu chuyện đang kể, tôi chợt nghĩ tới ông Sáu với hi vọng ông “giải cứu” Hạn hán và cơn mưa. Thật may mắn, tôi được ông hẹn gặp vào một buổi trưa tại tư dinh, 57 Phan Ðình Phùng, Hà Nội. Tôi trình bày với ông cặn kẽ về câu chuyện Hạn hán và cơn mưa, về tác giả Ea Sola, kèm theo tài liệu và hình ảnh dẫn chứng. Ðây là tác phẩm múa đương đại dựng trên nền âm nhạc chèo cổ, mở đầu cho chương trình đưa nghệ thuật dân tộc VN ra thế giới của người nghệ sĩ trẻ tài năng và tâm huyết này. Diễn viên múa sẽ là các bà nông dân lần đầu tiên ra khỏi lũy tre làng của mình, bước thẳng từ ruộng lúa nước lên sân khấu nghệ thuật quốc tế. Toàn bộ kinh phí nghiên cứu, dàn dựng, di chuyển và biểu diễn đều do quỹ văn hóa của Pháp và các liên hoan nghệ thuật châu Âu đài thọ. Xin đề nghị thủ tướng xem xét và đặc cách cho tác phẩm được dàn dựng...

Ông Sáu chăm chú lắng nghe rồi nhỏ nhẹ: “Cái tế nhị ở đây là nhìn nhận đúng các giá trị, cái nào lớn, cái nào nhỏ. Có sự nhầm lẫn giữa lớn và nhỏ. Cái tưởng lớn hóa ra nhỏ, cái tưởng nhỏ lại là lớn...”. Kết thúc cuộc gặp, ông nói ông sẽ trao đổi với liên bộ Ngoại giao, Văn hóa - thông tin và Công an để quyết định sớm. Hai ngày sau, tôi nhận được lời nhắn của ông qua điện thoại “Hạn hán và cơn mưa được phép tiếp tục dàn dựng”...

Ngày 2-5-1995, Ðoàn nghệ thuật múa đương đại Ea Sola diễn báo cáo cấp bộ vở múa Hạn hán và cơn mưa tại rạp Công Nhân, Hà Nội, trước khi lên đường đi Pháp. Ngày 19-5, đoàn diễn suất đầu tiên tại Pháp, khai mạc cuộc lưu diễn liên tục hai năm trời qua gần chục quốc gia ở châu Âu và Mỹ. Ðoàn đã đặt chân lên nhiều sân khấu danh tiếng của thế giới mà bất kỳ một đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp nào cũng mơ ước. Biết bao nhiêu bài viết trên các tờ báo lớn của nhiều nước ca ngợi Hạn hán và cơn mưa thành công đến mức tạo nên một sự kiện văn hóa VN...

Năm 1997, Ea Sola dựng tiếp vở múa Ngày xửa ngày xưa trên nền nhạc tài tử Nam bộ. Tiếp nữa là các vở Cánh đồng âm nhạc, Thế đấy, thế đấy, Khúc cầu nguyện... Vở nào cũng được lưu diễn qua nhiều nước và cũng thành công ở những mức độ khác nhau. Phong cách Ea Sola dần dần tạo nên dấu ấn và có ảnh hưởng đến nghệ thuật múa đương đại VN.

Mãi sau này, khi thôi giữ chức vụ thủ tướng Chính phủ, ông Sáu Dân mới có dịp đôi lần đến xem các vở múa của Ea Sola tại Hà Nội. Ông cứ tấm tắc khen: “Con nhỏ tài thiệt, giỏi thiệt!”.

62TQIAVQ.jpgPhóng to
Nguyễn Duy hút thuốc lào bên mộ Karl Marx - Ảnh: Vũ Hòa

Câu chuyện Hút thuốc lào bên mộ Karl Marx

Tháng 5-1996, vở múa Hạn hán và cơn mưa lưu diễn đợt thứ 2 qua các nước Pháp, Hà Lan, Anh và Mỹ. Tôi được mời đi cùng đoàn sang châu Âu đợt này, đã xem các bà nông dân Thái Bình nhảy múa tung hoành như thôi miên khán giả trên sân khấu Paris, Amsterdam, London... và đã ghi lại trong bút ký “Hạn hán và cơn mưa - câu chuyện của tâm hồn” ngay từ hồi đó. Sau chuyến đi ấy, tôi được gặp lại Thủ tướng Võ Văn Kiệt, để kể với ông về thành công lớn của Hạn hán và cơn mưa mà tôi chứng kiến, về hình ảnh độc đáo của các nghệ sĩ nông dân nhà ta trên đường phố châu Âu, về cách giới thiệu rất hiệu quả văn hóa VN ra thế giới bằng nghệ thuật nâng cao mà nghệ sĩ Ea Sola đang làm... Và sau cùng là câu chuyện nhỏ về tấm ảnh “Hút thuốc lào bên mộ Karl Marx”.

Chuyện rằng...

Tôi vốn nghiện thuốc lào, đi đâu cũng mang theo bánh thuốc lào với cái điếu cày làm bằng ống tre thân thuộc. Sang Nga. Sang Mỹ. Rồi sang Pháp...

Tại Paris, trong khi chờ xin visa qua London, tôi lụi cụi khoét cái hộp gỗ thông đựng chai rượu vang Côte du Rhône thành hộp đựng điếu cày, xách toòng teng, ống điếu thò lên như nòng súng phóng lựu đạn. Có lẽ đây là chiếc điếu cày VN đầu tiên đi tàu tốc hành TGV chui qua hầm biển Manche từ nước Pháp sang nước Anh. Cũng chính vì thấy nó giống nòng súng mà các nhân viên an ninh nước Anh đã giữ tôi lại tại ga Waterloo (London) và khám tung hành lý của tôi, lôi ra một bịch thuốc lào mà họ nghi là cần sa. Tôi không biết tiếng Anh để có thể giải thích cho họ hiểu về điếu cày và thuốc lào của VN. Rồi một phụ nữ châu Á xuất hiện. Chị nói tiếng Việt, tự giới thiệu mình là nhân viên hải quan Vương quốc Anh, được mời đến giám định ma túy. Tôi hỏi chị có biết thuốc lào không, chị bảo biết. Tôi hỏi chị có biết cái ống tre hút thuốc lào này không, chị cười, biết. Chị xem xét cái ống điếu và gói thuốc lào một lát, trao đổi gì đó với các nhân viên an ninh, rồi quay lại bảo tôi người Anh chưa thấy cái “píp” như thế này bao giờ, họ muốn tôi hút thử cho họ xem. Tôi nghe như ngứa được gãi, đã quá, hút thật chứ thử gì nữa, nhịn suốt nửa ngày trời đang thèm muốn chết!... Xin chút nước đổ vào ống điếu, tôi vê mồi thuốc lào vừa phải, sửa thế ngồi cho thật vững, quẹt diêm, rít giòn giã như thổi còi, rồi ngửa cổ phun một luồng khói trắng lên trần nhà. Những người Anh đồng loạt vỗ tay... Và họ sắp xếp hành lý lại cho tôi, lần lượt bắt tay, chúc may mắn, tiễn tôi ra cửa. Tôi vẫn ngất ngưởng với ống điếu cày chĩa lên như nòng súng phóng lựu đạn. Nghệ sĩ Ea Sola đến đón theo giờ hẹn, sốt ruột ngồi chờ cả tiếng đồng hồ mà không hiểu chuyện gì xảy ra với tôi trong phòng an ninh nhà ga Waterloo...

Ea Sola đưa tôi về nơi ở của cả đoàn, khách sạn Hoàng Gia, London. Ống điếu cày kè kè bên hông, may mắn thay, nó không bị tịch thu như tôi lo ngại. Tôi mang nó theo từ TP.HCM, quyết chí phen này phải đưa được cái “bảo bối” của người thợ cày VN đến tận mộ cụ Karl Marx, để rít hơi thuốc lào cho đã cả một đời. Vấn đề còn lại là làm sao đến được ngôi mộ ấy...

Trước khi trình diễn Hạn hán và cơn mưa tại London, Ðoàn nghệ thuật Ea Sola được ban Việt ngữ Ðài BBC mời đến gặp gỡ với nhà đài. Tôi và họa sĩ Vũ Hòa, một thành viên trong đoàn, nhờ người lái xe của nhà đài chỉ đường đến mộ Karl Marx, được ông này vẽ sơ đồ, hướng dẫn rất tỉ mỉ. Sáng 14-6-1996, hai chúng tôi đi xe lửa tới một ga ngoại ô London, đi bộ một chặng dài nữa tới nghĩa trang Highgate, khu nghĩa trang tư có từ lâu đời. Vào cửa phải mua vé, hình như một bảng rưỡi một người, phải gửi lại máy quay video, chỉ được mang theo máy chụp ảnh. Tôi vẫn được mang theo ống điếu cày mà mấy người gác cổng không biết nó là cái gì.

Chúng tôi đi lòng vòng lúc lâu mới tìm thấy mộ Karl Marx, ngôi mộ ốp đá đơn sơ nép gần tường rào cuối nghĩa trang. Ðã có ai đặt dưới chân mộ mấy bó hoa rất tươi. Tôi cúi đầu trước mộ cụ, kính cẩn mặc niệm, rồi ngồi bệt xuống nền đá, từ từ rút điếu cày ra. Không có hương thì có khói vậy, tôi thầm nhủ, xin gửi tới cụ làn khói mơ màng của nông dân VN. Vê một mồi thuốc lào vừa sức, tôi tựa lưng vào vách mộ đá lấy thế ngồi chắc chắn, rồi xòe diêm, rít hồi còi giòn giã, ngả đầu phun khói trắng lên trời. Nhìn lơ mơ qua màn khói, thấy họa sĩ Vũ Hòa chụp ảnh lia lịa. Tấm ảnh được chọn để in ra đây là lấy từ chiếc máy ảnh nhỏ xíu của tôi do Vũ Hòa bấm...

Năm đó, câu chuyện về tấm ảnh “Hút thuốc lào...” chỉ dừng lại đó. Thủ tướng Võ Văn Kiệt lắng nghe chăm chú, cười cười nhưng không bình luận gì.

Nào ngờ năm năm sau, câu chuyện này lại được tiếp nối một cách rất tình cờ...

Cuối tháng 10-2001, triển lãm “Hồn giấy dó” khai mạc tại 29 Hàng Bài, Hà Nội, trưng bày thơ và ảnh nghệ thuật của Nguyễn Duy in trên giấy dó, trong đó có tấm ảnh “Hút thuốc lào bên mộ Karl Marx” phóng lớn, khổ 40x60cm.

Sáng 27-10-2001, ông Sáu Dân (lúc đó đã là cựu thủ tướng, đương kim cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản VN) và một số người cùng đi đến xem triển lãm của tôi. Ông Sáu dừng lại, ngắm nghía khá lâu tấm ảnh kể trên và hỏi tôi về những chữ khắc trên mộ. Tôi thưa rằng, hàng chữ lớn nhất là trích lời Karl Marx: “WORKERS OF ALL LANDS UNITE”, có nghĩa “Người lao động toàn thế giới liên hiệp lại”. Còn các hàng chữ nhỏ là tên những người trong mộ. Ngôi mộ này hiệp táng năm người: Karl Marx; Jenny - vợ Marx; Eleanor - con gái của vợ chồng Marx; Helena Demuth - người giúp việc của gia đình Marx; và một người nữa, Harry Longuet - tôi chưa rõ là ai (sau này nhờ nhà báo Nguyễn Ngọc Giao tra cứu, tôi mới biết đó là cháu ngoại của Karx Marx).

Chỉ tay vào cái điếu cày tôi đang cầm trong ảnh, ông Sáu hỏi ống điếu kia giờ để đâu? Tôi đáp một người bạn tôi ở Paris tên Nguyễn Ngọc Giao đang giữ nó. Ông nói nên đưa nó về VN, lồng khung kính treo bên cạnh tấm ảnh...

Trước khi rời phòng triển lãm, ông Sáu chậm rãi ghi lại cảm tưởng và lời chúc mừng tôi trên một tờ giấy dó. Chiều đó, anh Căn - người giúp việc của ông - trở lại phòng triển lãm tìm tôi, nói có người bạn của chú Sáu rất thích và muốn mua tấm ảnh “Hút thuốc lào...” được không? Tôi đồng ý bán với giá gốc, đủ chi phí công in giấy dó rồi cuộn tấm ảnh trao cho anh Căn...

Ít lâu sau, tôi có dịp được ông Sáu mời đến chơi tại nhà riêng, số 16 Tú Xương, quận 3, TP.HCM, chợt ngẩn người thấy tấm ảnh “Hút thuốc lào bên mộ Karl Marx” được lồng khung kính trang nhã, treo trong phòng khách của ông. Ông Sáu chỉ tay lên bức ảnh, cả cười: “Mình muốn dành cho cậu một bất ngờ. Mình thích bức ảnh này vì nó mang ý nghĩa biểu tượng, khó nói thành lời. Thầm hiểu thôi. Nhưng mình ngại cậu không chịu lấy tiền nên phải nhờ Căn nó nói trại là mua giúp người khác”. Tôi thành thực rằng, tiếc quá, nếu biết là anh Sáu mua bức ảnh này thì tôi phải bán cao gấp mười giá gốc...

Thấm thoắt đã hơn mười năm trời. Tôi vẫn thầm hiểu thôi... Nhiều điều ông Sáu không nói ra và chưa nói hết, tôi chỉ thầm hiểu thôi... Mẩu chuyện nhỏ nhắc nhớ mãi về một tầm vóc lớn...

PHẠM VŨ
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên