![]() |
Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận DTGPMNVN (ảnh chụp năm 1962) |
Mãi đến ngày 30-10-1961, ông mới được bộ đội giải cứu và đưa về căn cứ Dương Minh Châu (Tây Ninh) để lãnh đạo mặt trận trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trở thành lãnh tụ “Việt cộng” nổi danh khắp thế giới, hành trình cách mạng của người trí thức bắt đầu từ một cuộc trở về...
Mùa hè 1921, mới 11 tuổi, Nguyễn Hữu Thọ giã từ quê hương Bến Lức (Long An) một mình xuống tàu sang Pháp du học.
Trong 11 năm miệt mài học tập trên đất khách quê người, anh hoàn toàn sống trong môi trường giáo dục Pháp, thông thạo lịch sử, văn chương, văn hóa của Pháp hơn là của VN, nói tiếng Pháp trôi chảy hơn tiếng mẹ đẻ.
Lời mời của Ủy ban Kháng chiến
Tháng 5-1933, về nước, anh tập sự tại văn phòng luật sư Duquesnay ở Mỹ Tho mấy năm, rồi mở văn phòng riêng ở Mỹ Tho, sau chuyển qua Vĩnh Long, Cần Thơ, rồi Sài Gòn.
Năm 1940, cuộc khởi nghĩa Nam kỳ bị thực dân Pháp dìm trong bể máu. Gương hi sinh dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng cũng như những hành động tàn sát dã man của thực dân Pháp khơi dậy tình dân tộc, nghĩa đồng bào tiềm ẩn trong tâm hồn người luật sư trẻ tuổi.
Năm năm sau, Cách mạng Tháng Tám thành công, nhưng niềm vui kéo dài chưa đầy một tháng thì quân Pháp trở lại tái chiếm Nam bộ.
Năm 1946, luật sư Nguyễn Hữu Thọ xuống Vĩnh Long, làm chánh án tòa án dân sự của tỉnh. Anh hoàn toàn không biết rằng mọi hoạt động của anh đều nằm trong “tầm ngắm” của Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam bộ.
Anh được nhận xét là một trí thức chân chính, luôn bảo vệ công lý, bênh vực người dân vô tội trước tòa án của thực dân.
Một tối giữa năm 1946, hai thanh niên lạ mặt đến trao cho anh thư của ủy ban mời anh ra Đồng Tháp Mười, thủ đô của kháng chiến Nam bộ lúc ấy. Người ký tên ở cuối bức thư chẳng phải ai xa lạ: Phạm Ngọc Thuần, một luật sư được đào tạo tại Pháp như anh. Vợ anh Thuần, chị Bùi Thị Cẩm, cũng là một đồng nghiệp của anh.
Tại trụ sở của ủy ban - một căn nhà lợp lá dừa nước cất ven kênh Dương Văn Dương - anh được tiếp đón niềm nở. Người đứng đầu ủy ban, tiến sĩ luật sư Phạm Văn Bạch, đang đi công tác xa; luật sư Thuần là quyền chủ tịch ủy ban.
Hai anh trao đổi tình hình, bàn thảo công việc một cách tâm đắc. Vì anh Thọ nói tiếng Việt không trôi chảy lắm nên hai anh sử dụng tiếng Pháp.
Sáng hôm sau, anh Thọ được đưa đi thăm một số cơ quan kháng chiến, một vài đơn vị Vệ quốc đoàn rồi vào xóm thăm dân chúng. Anh thấy cuộc sống trong chiến khu còn nhiều thiếu thốn gian khổ, nhưng từ cán bộ, chiến sĩ đến dân chúng ai cũng lạc quan, tin tưởng, quan hệ đoàn kết, thân ái.
Đặc biệt, buổi gặp gỡ trò chuyện với luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, giáo sư Hoàng Xuân Nhị, kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt... - những trí thức đã từ bỏ nếp sống vật chất khá giả ở chốn đô thành để lao vào cuộc kháng chiến - đã gợi trong anh nhiều suy nghĩ. Tối hôm ấy, anh đề nghị ủy ban cho anh ra chiến khu tham gia kháng chiến, sẵn sàng nhận bất cứ công tác nào do ủy ban giao.
Đêm cuối cùng ở Đồng Tháp Mười, anh Thuần ôn tồn nói với anh: “Ở đâu có địch, ở đó là chiến trường. Đánh địch ngay trong vùng tạm chiếm là một nhiệm vụ kháng chiến không kém phần quan trọng.
Ủy ban nhận thấy anh Thọ có nhiều điều kiện - về năng lực, về hoàn cảnh... - mà nhiều người không có nên khuyên anh ở lại thành phố tham gia đấu tranh chính trị công khai, hợp pháp với địch, điều đó có lợi cho kháng chiến rất nhiều”.
Trong tòa án thực dân
|
Làm theo lời dặn của anh Thuần, anh đến gặp luật sư Hoàng Quốc Tân. Anh Tân là cháu nội của kinh lược sứ Bắc kỳ Hoàng Cao Khải, gọi hai tổng đốc Hoàng Mạnh Trí và Hoàng Trọng Phu bằng bác ruột.
Sau khi đỗ tiến sĩ luật khoa tại Pháp, anh Tân gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Theo lời kêu gọi của Bác Hồ, anh về nước, được Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn phân công phụ trách Ban trí vận, hoạt động ngay trong lòng địch.
Ngày 25-4-1947, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa đề nghị hai nước Pháp - Việt mở cuộc đàm phán để sớm kết thúc chiến tranh. Hưởng ứng đề nghị trên, Ban trí vận Thành ủy quyết định đưa ra một bản Tuyên ngôn của trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn kêu gọi Chính phủ Pháp đáp ứng đề nghị nói trên của Chính phủ VN.
Anh Thọ tích cực vận động các nhân sĩ, trí thức ký tên vào bản tuyên ngôn. Chỉ trong một tuần lễ đã có hàng trăm chữ ký của các luật sư, kỹ sư, bác sĩ, dược sĩ, nhà giáo, nhà báo...
Đúng vào dịp kỷ niệm lần 57 ngày sinh của Bác Hồ, anh Thọ cùng một số nhân sĩ, trí thức tiêu biểu của Sài Gòn - Chợ Lớn vào dinh Norodom trao bản tuyên ngôn tận tay cao ủy Pháp tại Đông Dương Émile Bollaert để chuyển về Chính phủ Paris. Bản tuyên ngôn được đăng tải trên báo tiếng Việt và tiếng Pháp xuất bản trong nước và ở Pháp, gây được tiếng vang lớn.
Tại chiến khu Việt Bắc, sau khi đọc bản tuyên ngôn, Bác Hồ đánh giá cao nhiệt tình yêu nước của nhân sĩ, trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn, viết thư “thay mặt Chính phủ cảm ơn sự ủng hộ của các bạn” (25-5-1947).
Ngày 22-6-1947, Bác Hồ nói chuyện với một nhà báo nước ngoài: “Sài Gòn - Chợ Lớn là nơi quân Pháp đang chiếm đóng. Tỏ lòng ái quốc là một sự nguy hiểm cho người VN. Thế mà hơn 700 người trí thức và tư sản VN ở vùng đó vừa bạo dạn ký giấy đòi Chính phủ Pháp đàm phán với Chính phủ VN”.
Việc làm thường xuyên của anh Thọ là bênh vực các cán bộ kháng chiến trước tòa án của thực dân. Chẳng hạn, vụ biện hộ cho anh Hoàng Xuân Bình, cán bộ Bộ Tư lệnh khu 9, ngày 25-5-1948.
Công tố viên, đại úy Avazeri, buộc anh Bình tội phản quốc mà mức án được qui định từ 5 năm khổ sai đến tử hình. Anh Thọ đã đứng lên phản đối (bằng tiếng Pháp): “Khép thân chủ của tôi vào tội danh phản quốc là một sai lầm căn bản.
Ông Bình không phải là người Pháp, cũng không mang quốc tịch Pháp. Ông là công dân của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, một quốc gia vừa giành được độc lập từ 2-9-1945. Do đó ông có quyền và có bổn phận phải thi hành mọi nghĩa vụ công dân đối với Tổ quốc của mình.
Việc tòa án của Pháp truy tố công dân một nước độc lập trên lãnh thổ quê hương của người ấy là một điều vô giá trị. Tôi đề nghị quí tòa quyết định miễn tố và trả tự do ngay cho thân chủ của tôi”.
Trước lập luận đanh thép của luật sư Thọ, Avazeri phải lùi bước, xin bỏ tội danh “phản quốc” và thay bằng tội danh “hoạt động lật đổ”. Cuối cùng, tòa án chỉ tuyên xử anh Bình 3 năm tù giam.
Đầu năm 1949, anh Thọ bảo lãnh cho anh Bình và kỹ sư Trương Công Phòng (một cán bộ khác của khu 9) được tự do có điều kiện, chỉ phải báo cho cảnh sát biết mỗi khi di chuyển. Anh đưa hai anh về ở tại một ngôi nhà trên đường Duranton (Bùi Thị Xuân ngày nay).
Hai tháng sau, hai anh ngỏ ý muốn trở ra chiến khu để tiếp tục chiến đấu, chỉ sợ cảnh sát làm khó dễ người bảo lãnh. Anh Thọ đáp: “Cảnh sát có cả một bộ máy chuyên theo dõi hai anh mà không biết chuyện hai anh ra lại chiến khu thì tôi làm sao biết được?”.
--------------
Kỳ sau: Mặt trận giữa lòng địch
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận