24/02/2015 14:31 GMT+7

Những ký ức không bao giờ phai nhạt

LÊ GIANG
LÊ GIANG

TTXuân - Nhiều văn nghệ sĩ đã gắn bó tuổi thanh xuân mình ở đó, trong căn cứ R - một khu rừng thuộc tỉnh Tây Ninh của thời chiến tranh chống Mỹ.

Buổi biểu diễn của đoàn văn công giải phóng tiền phương phục vụ các chiến sĩ giữa hai trận đánh - Ảnh: TTXGP
Buổi biểu diễn của đoàn văn công giải phóng tiền phương phục vụ các chiến sĩ giữa hai trận đánh - Ảnh: TTXGP

Mấy mươi năm nhớ lại, càng nhớ da diết những dấu chân gửi lại trên mỗi con đường dẫn đến R, dẫn đến những ký ức không bao giờ phai nhạt. 

Ông “tối dạ” có tên là… Quang Sáng

“Suốt ngày nay, ta sẽ xuyên qua cánh đồng. Trời nắng, trống trải, qua một Gò Nổng, hai xóm dân làm nghề cá. Nghỉ trưa trên một bờ tre có quán, qua một bốt giặc cách đường mòn chừng 500 thước. Tối qua trạm đã phổ biến mấy chú đem theo nước uống, cơm vắt. Chạng vạng sẽ tới trạm, không để ló đuôi”  - chú giao liên dặn dò ngắn gọn.

Chẳng nói chẳng rằng, đoàn người lầm lũi cất bước. Không có tiếng gậy khua như Trường Sơn, không có tiếng chim hót với đại ngàn.

- Gần tới cái gò gì đó chưa, chú em?

- Ở lùm cây trước mặt kìa!

- Sắp tới đồn giặc chưa chú em? Cái đồn đó tên là gì vậy, chú em?

- Chừng nào thấy hàng dừa cụt ngọn hết trơn ở phía tay mặt!

- Nghe nói trong bờ tre có nhà đồng bào, có quán hủ tiếu của ông bộ đội giải ngũ, hễ ai ghé lại ăn ổng cũng “tiếp khách” một tô, vợ ổng la quá trời. Chú khoái ông chủ quán này à nghen!

- Trời! Sao chú nhiều chuyện quá vậy? Chú hỏi hoài vậy. Chú không biết nội quy chiến sĩ giao liên “Không biết, không nghe, không thấy”. Sao chú “tối dạ” quá trời vậy!?

***

… Lầm lì, bể nghể, lầm lũi, im thin thít! Ngặt nỗi trong đoàn hành quân hôm nay, ai mà chẳng biết tiếng tăm của “ông hay hỏi”. Ổng là nhà văn nổi tiếng viết chuyện chiến tranh nhân đạo, chuyện phim Mùa gió chướng, Cánh đồng hoang… Ổng bị chú giao liên xài xể mà ổng tỉnh rụi, ai cũng ngài ngại.

Thấy chú em đổ quạu, “ông hay hỏi” đành thúc thủ trong cái lồng chảo nắng chang chang. Có lúc ông như thấm ý cười khan một tiếng, chắc là cũng khoái “thằng nhỏ” chưa bể tiếng mà rầy ổng chàng chạc, lại tưng tức đi đâu mà không biết tên đất, tên làng, đi đẩu đi đâu!?

Nhân lúc dừng chân trong lũy tre rậm rạp, ông nhà văn vừa quấn thuốc lá vừa cà rà lại gần chú giao liên:

- Cháu nghĩ sao mà cháu chê chú tối dạ?

- Ai biểu chú cứ hỏi hoài. Hồi ở nhà cháu bị má rầy “tối dạ” vì cháu hay hỏi.

“Ông hay hỏi” lại cười, vỗ vai chú em giao liên:

- Ê! Chú mày nói chú tối dạ, vậy chớ ba chú đặt tên chú là Quang Sáng đó nhen! Là “sáng dạ” đó nhen!

Tiếp tục cuộc hành quân. Chú giao liên điều ông “sáng dạ” đi hàng đầu, kế giao liên và dặn: “Chú có hỏi gì hỏi nhỏ nhỏ. Đêm nay cháu phải đưa mấy chú về ăn tết ở chợ. Nhứt định không để ló đuôi”.

- Thôi, mầy nói vậy tao biết rồi, không sợ ló đầu lòi đuôi gì hết!

Một cuộc đánh tráo

Rừng trong căn cứ thường có bộ đội dừng chân khi cần nghỉ ngơi chút đỉnh.

Chị em mình ở cứ thường chờ dịp đó để trông, xem, nhìn, ngó, liếc, dòm… người lính chiến đấu mà chị em thường hát trong tưởng tượng…

Rừng muôn cây xanh cao, âm u ngàn gió lá… (Lửa rừng của nhạc sĩ Hoàng Quý). Bỗng có những chàng trai trẻ đầy sinh khí, xẹt tới xẹt lui, khiến chị em mình cứ nở nụ cười tươi như hoa hồng thắm… ý. Họ bày ra luộc khoai, luộc bắp, nấu chè trôi nước. Trong khi ai vá quần vá áo cho chiến sĩ thì cứ âm thầm gửi đường kim mối chỉ mà chợt nhớ ông chiến sĩ Xuân Hồng với Bài ca may áo, chớ không ngó ngàng gì tới mấy chú, mấy anh trong cơ quan, cứ để họ cột đùm, cột túm!...

Ôi, những chiếc áo bạc màu, chiếc quần cụt te tua, cái túi xắc-cốt rách bươm, cái ruột tượng thủng lỗ chỗ… không biết của ai mà sao còn vương vấn mùi mồ hôi của ba, mùi nắng khét của những đứa em trai chạy nhảy suốt ngày…

Gà rừng đã gáy, cầu mây đang bắc le lói phía cửa rừng. Chỉ còn một chiếc áo nữa thôi! Tôi cầm lên chiếc áo bà ba đơm nút ốc, áo bà ba màu xám dệt tơ tằm. Có lẽ chiếc áo này của vị chỉ huy chăng? Tôi vẫn vá, vẫn mạng tay áo sờn rách ở cùi chỏ, đôi vai và vạt sau. Rồi tôi xếp lại cẩn thận áo quần đã vá lành, giao cho nhà thơ Viễn Phương đưa tiễn bộ đội lên đường.

...Rừng sáng bét, để lại những bãi cỏ xẹp lép, những rễ cây trơ vơ.

Thoáng cái bỗng im lìm, vắng tanh, vắng ngắt. Tôi thấy nhà thơ Viễn Phương đang cầm chiếc áo tơ tằm do tôi vừa vá víu, từ trong lùm cây bước tới cười với tôi, vẻ nghịch ngầm:

- Ai biểu tôi mượn chị vá cái áo vợ tôi gởi cho tôi, hôm đi tải gạo bị gai quàu. Chị cứ phớt lờ nên tôi phải mượn oai bộ đội, đánh tráo áo rách lấy áo vá, mai mốt vợ tôi vô rừng thăm tôi thấy áo vợ cho được vá lành, sẽ cảm ơn chị lắm!

Trời đất! Cái ông nhà thơ có vẻ lúc nào cũng hay mắc cỡ, cũng có vẻ thiệt thà, mà ai ngờ cũng… cũng… để lại cho tôi một tình anh em chân thành. Tôi không thể nào quên được người anh em cùng chiến hào biết cách đánh tráo nhân hậu như vậy!!!

Hớt tóc “thanh nữ”

Năm 1971…

Anh em văn nghệ sĩ đi dự Đại hội anh hùng, nào là nhạc sĩ, họa sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch…

Được đi dự Đại hội anh hùng trong lúc đang đánh nhau, ai cũng thấy  hào hứng vì sắp được nghe bao thành tích sống động do người trong cuộc kể lại.

Khi ngồi nghỉ ở ven rừng, họa sĩ Thanh Châu bỗng than thở rằng đi gấp quá, hớt tóc không kịp, để tóc tai chơm bơm, vô hội trường sợ bị “quánh giá” mấy tay họa sĩ bầy hầy ở dơ nhất xứ.

Nghe Thanh Châu than, tôi thấy thương bèn giải quyết thắc mắc cho “em” ngay!

- Để chị hớt tóc cho em! Có ai đem kéo, dao cạo râu, tới chỗ trạm tiếp đón cho tôi mượn.

Tôi nhìn tóc tai Thanh Châu nghe ngứa ngáy giùm. Tôi nghĩ có gì khó đâu, cứ cắt bớt cho gọn, cho “em nó” mát mẻ, lại lịch sự.

Tới trạm tiếp đón, ai ấy đều tranh thủ ra giếng tắm. Thanh Châu sốt sắng rủ tôi ra mấy bụi chuối ngay thành giếng, ngoan ngoãn đưa đầu cho tôi. 

Tôi hớt, tôi ngắm, tôi phủi tóc dính trên mặt, trên vai, sau ót… Và tôi bỗng dưng giật mình muốn chạy trốn khi xối nước cho Thanh Châu gội đầu. Còn Thanh Châu làm sao dời cặp mắt để thấy được cái đầu của mình như trái dưa gang sọc vàng sọc trắng, xung quanh ót, trái trắng hếu, trụi lủi như úp miểng dừa, miểng gáo. Anh em nhìn Thanh Châu tức cười mà không nỡ cười, cũng không nói gì chỉ: Hỡi ôi!

Thanh Châu sau khi soi kiếng liền bừng bừng nổi giận, sừng sộ tiến tới trước mặt tôi:

- Sao chị ẩu quá vậy? Chị vanh cái đầu tôi như vầy có nước tôi chui xuống đất, làm sao ngày mai tôi tới hội trường cho được!?

Tôi biết lỗi nên làm thinh một hồi cho Thanh Châu mắng nhiếc. Tôi lí nhí: “Mai chị đưa khăn rằn cho em quấn cổ, hay em quấn đầu như nông dân!?”.

Thanh Châu lại bừng bừng:

- Không có chị em gì hết, chị hại tôi quá!

***

Sáng hôm sau lên hội trường, tôi né Thanh Châu, ngồi tuốt hàng ghế sau cùng. Tôi chẳng nhìn đi đâu cả, chỉ nhìn kiếm “em”. Thấy em cột khăn rằn cũng oách lắm, ký họa lia lịa những anh hùng trẻ măng. Chắc lần lần rồi tóc em sẽ mọc, em sẽ hết giận tôi!?

Kể tới đây tôi nhớ Thanh Châu lắm. Thanh Châu mất, tôi không hề hay biết. Lần gặp cuối cùng ở 81 Trần Quốc Thảo, Thanh Châu còn giỡn với tôi: Giờ em chỉ “hớt tóc thanh nữ”, không để chị phá đám nữa đâu!?

Em đã không còn giận chị về cái vụ hớt tóc vì ông bà mình dạy: “Còn da thì tóc mọc, còn chồi thì lên cây”…

Lời thề dưới tán dâu rừng

Thời có giặc, anh em thường nói y như thật và phổ biến cho nhau y như thiệt: Nếu có máy bay giặc xà quần trên đầu thì đừng chạy theo anh Giang Nam. Sao kỳ vậy? Ừ, vì trong bồng của ảnh lúc nào cũng có hàng ký ớt bột, chẳng may đạn khoét cái bồng ảnh thủng rách thì bụi ớt bột bay ra. Ra sao thì không cần tả nữa. Rải chất độc hóa học chớ còn sao nữa!?

Lần lần, biết sự thật đúng như vậy thì anh em cũng không dám để cái bồng của mình gần bồng anh Giang Nam, vì chỉ để gần thôi mà còn nhảy mũi, hai con mắt nổ đom đóm đỏ ké. Trong khi anh em bàn tán như vậy thì… liếc nhìn chén cơm anh Giang Nam… có lẽ chỉ có ớt mà không có cơm.

- Bộ không cay sao anh Năm (Giang Nam thứ Năm) - Sợ cay làm sao nuốt cơm vô! Nghe nói thuở “Trai hùng nam quốc”, Giang Nam là tiều phu đốn củi trên rừng, lạnh lẽo phải ăn ớt!

Thôi thì… chuyện ớt bột đành gác lại để kể tiếp về anh chàng đa tình Hoài Vũ, chuyên ăn rau chóc lá hẹ thay cơm; một rổ rau chóc lá hẹ mọc hoang trong những con mương phèn chua nước trong leo lẻo, chiều dài cả thước, chẳng giòn tan, chẳng mùi vị. Vậy mà Hoài Vũ cứ nhét vô miệng một hơi, một hơi, còn cười ha hả úp cái rổ không xuống đất.

Đấy! Hai người con của miền Trung chiến đấu trong rừng miền Đông hãy còn sống đấy! Nhà thơ Giang Nam (ớt bột) đang ở Nha Trang, vừa đi Mỹ thăm thằng cháu ngoại thi đậu phi công hạng ưu. Còn nhà thơ Hoài Vũ (rau chóc lá hẹ) đang ở Sài Gòn. Năm ngoái có gọi Lư Nhất Vũ khoe anh vừa vô bệnh viện mổ xẻ gì đó, lại được êkip mổ cho nhìn lên trần xem ruột gan phèo phổi lục phủ ngũ tạng của anh, thiệt quá đã - Hoài Vũ cười, như lúc ăn hết cái rổ “rau cỏ” rồi úp cái rổ xuống đất!

… Hai tay nhà thơ kỳ khôi đó có lần đứng núp ló ven rừng, ngoắc ngoắc tôi ra, dẫn tôi xăm xăm tới gốc cây dâu, chỉ lên tán cây dâu rừng sum sê những chùm dâu chín vàng, bắt tôi đặt tay lên ngực thề không được chỉ cho ai rồi bắt tôi ăn thử. Giống như hồi nhỏ chơi nhà chòi.

Mấy ngày sau chưa ai bị “mắc” lời thề thì B52 đã tới ăn sạch hết dâu rừng… mà còn ăn thêm các thứ khác. Và cũng đã hết chuyện đâu! Chính Giang Nam và Hoài Vũ đã “bỏ” Lư Nhất Vũ lên võng khiêng qua con suối ngập nước mênh mông, tới Quân y K23 (Hậu cần quân giải phóng) khi Lư Nhất Vũ lên cơn sốt ác tính mê man…

Sau vài tuần cắt được cơn sốt rét ác tính, Lư Nhất Vũ lồm cồm ngồi dậy dáo dác hỏi Giang Nam và Hoài Vũ đâu rồi. Vũ nói thèm và nhớ mấy chùm dâu rừng sao mà ngọt quá, đã kịp thề thốt gì đâu!?  

LÊ GIANG
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên